Thay vì các doanh nghiệp Việt tự mình đàm phán và chi trả 100 triệu USD để mua công nghệ từ nước ngoài, họ hoàn toàn có thể sử dụng các viện nghiên cứu, các trường đại học như một 'cửa sổ công nghệ': Chỉ cần nhập khẩu lõi công nghệ với khoản 20 triệu USD, phần còn lại yêu cầu chuyển giao cho các viện nghiên cứu, trường đại học để thực hiện theo yêu cầu thực tế. 'Bằng cách này, giá thành công nghệ sẽ giảm ít nhất một nửa', ông Phạm Đức Nghiệm - Phó Cục trưởng Cục Phát triển Thị trường và Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ phân tích.
'Tổng quan, chúng ta đang gặp thiếu hụt về quy mô và chất lượng doanh nghiệp', ông Phạm Đức Nghiệm - Phó Cục trưởng Cục Phát triển Thị trường và Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ) - chia sẻ trong một buổi chiều cuối tuần, trong khi ông đang bận rộn chuẩn bị cho sự kiện VCIC Connect, một sự kiện quan trọng để kết nối Ban quản lý dự án Trung tâm Đổi mới sáng tạo ứng phó với biến đổi khí hậu Việt Nam (VCIC), nơi ông đảm nhận vai trò Giám đốc.
'Xem tổng thể, theo kinh tế học, một doanh nghiệp cho mỗi 40 người dân sẽ không gặp tình trạng nghèo đói, thiếu việc làm. Ở Việt Nam, hiện có hơn 800.000 doanh nghiệp trong số hơn 98 triệu dân. Số liệu này cho thấy tỷ lệ doanh nghiệp trên đầu người dân vẫn còn cao', ông Nghiệm nói thêm.
Hỗ trợ vốn cho 48 doanh nghiệp mới và cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho hơn 500 doanh nghiệp trên toàn quốc, người đứng đầu VCIC cho biết hai điểm yếu chính của doanh nghiệp Việt: Mô hình quản lý kém hiện đại, dựa vào quan hệ cá nhân, quen biết thay vì dựa trên chuẩn mực quản lý hiện đại; và trình độ công nghệ, khả năng tiếp thu vẫn còn hạn chế.
Doanh nghiệp Việt cần tập trung vào việc tiếp thu công nghệ, nhưng đang bỏ qua cơ hội mở cửa sổ công nghệ
* Báo cáo 'Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo Việt Nam' mới được công bố đã chỉ ra rằng nhiều doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam vẫn sử dụng công nghệ ở mức độ 1.0 - sử dụng quy trình thủ công. Làm thế nào để nâng cao mức độ áp dụng công nghệ trong doanh nghiệp Việt?
Ông Phạm Đức Nghiệm - Phó Cục trưởng Cục Phát triển Thị trường và Doanh nghiệp Khoa học và Công nghệ (Bộ Khoa học và Công nghệ).
Dựa trên các số liệu thống kê từ nhiều báo cáo, chúng ta thấy rằng khả năng tiếp thu, kiểm soát công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn khá thấp, và trình độ công nghệ vẫn còn hạn chế, với hầu hết công nghệ được nhập khẩu từ các quốc gia (khu vực) đang phát triển. Theo số liệu thống kê, hơn 70% công nghệ được nhập khẩu từ Trung Quốc và Đài Loan (Trung Quốc).
Để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam cải thiện công nghệ và nâng cao khả năng kiểm soát công nghệ, có nhiều biện pháp và phương thức, nhưng tôi nghĩ rằng con đường đầu tiên là chúng ta cần tận dụng tốt vai trò của các viện nghiên cứu, các trường đại học tại Việt Nam như cửa sổ công nghệ.
Mặc dù có vẻ không có liên quan, nhưng thực sự lại rất quan trọng. Theo kinh nghiệm của các quốc gia phát triển trong việc phát triển thị trường công nghệ, khi các viện nghiên cứu, các trường đại học không tham gia vào việc giải quyết vấn đề công nghệ của doanh nghiệp, thì doanh nghiệp sẽ vẫn gặp khó khăn trong việc áp dụng công nghệ. Vì rất ít doanh nghiệp Việt Nam có đủ tài nguyên nhân lực và tài chính để tự mình nhập khẩu công nghệ cao từ các quốc gia phát triển về Việt Nam. Ngoài ra, tính chất của công nghệ là tri thức ẩn, người bán / tác giả thường có xu hướng 'thổi phồng' các tính năng của công nghệ, và người mua khó có khả năng đánh giá, xác định trình độ và hiệu suất kinh tế của công nghệ.
Quay lại thời điểm khi các nước phát triển có trình độ công nghệ tương đương với Việt Nam hiện nay, họ cũng phải đối mặt với thách thức: Để tăng cường khả năng cạnh tranh của sản phẩm và xuất khẩu vào các thị trường khó tính, họ phải đổi mới công nghệ bằng cách nhập khẩu từ các nước có trình độ công nghệ cao. Tuy nhiên, thách thức lớn là không đủ tiền và nguồn nhân lực chất lượng ...
Vậy họ sẽ làm thế nào? Câu trả lời chính là sử dụng các viện nghiên cứu, trường đại học như cửa sổ công nghệ, để hấp thụ và làm chủ công nghệ.
Quy trình thường được thực hiện như sau: Các tổ chức trung gian, môi giới sẽ cùng doanh nghiệp đàm phán về công nghệ với nhà cung ứng nước ngoài, nhưng thay vì nhập khẩu toàn bộ dàn công nghệ về Việt Nam, chỉ nhập khẩu phần lõi, bí quyết công nghệ. Toàn bộ phần thiết bị khác, khoảng 70% - 80% tổng giá trị, sẽ được trả thêm cho đối tác với tỷ lệ lợi nhuận 15-20%, và yêu cầu bên đối tác chuyển giao bản vẽ chế tạo để viện, trường tại Việt Nam có thể nghiên cứu hấp thụ, chỉnh sửa, hoàn thiện, tùy chỉnh theo yêu cầu thực tế của doanh nghiệp Việt Nam. Như vậy, giá thành công nghệ ít nhất giảm một nửa.
Hiện tại, hầu hết doanh nghiệp Việt đều gặp khó khăn trong việc tự đàm phán và triển khai công nghệ. Điều này xảy ra vì họ không thể đánh giá chất lượng công nghệ, tiếp cận nguồn cung công nghệ và thiếu kỹ năng đàm phán, xác định công nghệ, và thỏa thuận hợp tác công nghệ với các đối tác nước ngoài.
Chi phí nhập khẩu công nghệ cao vượt quá khả năng chi trả của doanh nghiệp, và họ không biết cách tách lấy công nghệ. Ví dụ, với một dàn công nghệ trị giá khoảng 100 triệu USD, viện, trường có thể chỉ lấy phần lõi công nghệ trị giá 20 triệu USD và chuyển giao phần còn lại.
* Nhưng vấn đề làm thế nào để giải quyết việc nhập khẩu công nghệ cao mà vẫn đảm bảo nguồn nhân lực và tài lực?
Hiện nay, nhu cầu nhập khẩu công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh và khai thác lợi ích từ các hiệp định thương mại của doanh nghiệp Việt đang tăng lên. Dữ liệu thống kê cho thấy tác động của Covid-19 khiến nhu cầu ứng dụng công nghệ mới tăng 25% so với năm 2020. Việc nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm để tiếp cận thị trường quốc tế thông qua các hiệp định thương mại là cần thiết. Tuy nhiên, doanh nghiệp gặp khó khăn vì muốn có công nghệ tốt nhưng lại hạn chế về tài chính và nhân lực.
Nguồn vốn quốc tế là một lựa chọn, nhưng làm thế nào để giảm chi phí nhập khẩu công nghệ? Vai trò 'cửa sổ công nghệ' của các viện nghiên cứu và trường đại học là quan trọng để hấp thụ, kiểm soát và chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả hơn cho doanh nghiệp.
Về vấn đề nhân lực, các viện nghiên cứu và trường đại học có đủ nhân lực cần thiết. Các chuyên gia sẽ tham gia vào quá trình thiết kế, thiết lập và hợp tác với doanh nghiệp, đồng thời đào tạo nhân sự và chuyển giao công nghệ.
Tất cả các quốc gia đều cần phải thực hiện những biện pháp tương tự. Một trong những giải pháp để nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp Việt là thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và các viện nghiên cứu, trường đại học. Nếu các viện nghiên cứu và trường không tham gia vào quá trình đổi mới công nghệ của doanh nghiệp, thì chúng ta sẽ gặp nhiều thách thức.
Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu 2021 (Global Innovation Index 2021 - GII) do Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) công bố có hơn 80 chỉ số thành phần. Trong đó, năng lực Hấp thụ tri thức xếp hạng 10 - là thế mạnh của Việt Nam nhờ sự dẫn đầu về Nhập khẩu công nghệ cao (hạng 4) và Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) (hạng 19), nhưng chỉ số Hợp tác Viện trường - doanh nghiệp lại ở thứ hạng thấp bậc nhất - thứ hạng 65 (dù đã tăng 10 bậc so với năm 2020).
Từ trường hợp ‘sếu đầu đàn’ VinFast sang Mỹ, chuyển đổi số là cần, nhưng chưa đủ
Ảnh: Vingroup.
* Ông nhiều lần lưu ý chuyển đổi số là cần, nhưng chưa đủ. Vì sao vậy?
Chuyển đổi số là điều cần thiết, nhưng không đủ. Tôi cho rằng cần có nhiều biện pháp khác nữa. Ví dụ, xét về mô hình phát triển khoa học công nghệ của các quốc gia, các chuyên gia thường chia thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Bắt chước và học hỏi
- Giai đoạn 2: Thu hút và kiểm soát
- Giai đoạn 3: Đổi mới sáng tạo
Tuy nhiên, không có quốc gia nào chỉ ở giai đoạn Bắt chước hoặc Thu hút và kiểm soát mà các phần tử kinh tế, doanh nghiệp không đồng đều về trình độ và điểm xuất phát. Sự chuyển đổi không đồng đều. Một số lĩnh vực công nghệ ở Việt Nam như nông nghiệp, thủy sản, vẫn ở giai đoạn Bắt chước, nhưng một số đã tiến tới giai đoạn Thu hút và kiểm soát, đặc biệt trong lĩnh vực Công nghệ thông tin (ICT), cơ khí chế tạo và một số lĩnh vực khác đã bước sang giai đoạn Đổi mới sáng tạo.
Nếu coi việc chuyển đổi số như một con tàu, thì phần lớn là ở giai đoạn 1 - Bắt chước, nhưng một số đã tiến tới giai đoạn 2, một số thậm chí đã vượt lên trên trình độ quốc tế ở giai đoạn 3.
Vì vậy, không thể áp dụng một chính sách chung cho tất cả. Đa số ở giai đoạn bắt chước, số hóa là đúng, nhưng nhóm ở giai đoạn Thu hút và kiểm soát thì sử dụng biện pháp gì? Nhóm Đổi mới sáng tạo đã số hóa từ lâu, biện pháp nào cho nhóm tiếp cận trình độ quốc tế? Nếu không có chính sách phù hợp, chúng ta sẽ bỏ lỡ cơ hội quan trọng. Không phát triển mà chỉ loay hoay với các giải pháp cho số đông, chúng ta có thể đánh mất cơ hội.
Kế thừa kinh nghiệm phát triển của các quốc gia tiên tiến và rút ra bài học sau 25 năm đổi mới ở Việt Nam, để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, chúng ta phải kiên trì theo đuổi con đường 'đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước', tái cấu trúc mô hình tăng trưởng từ dựa vào tài nguyên và lao động giá rẻ sang tăng trưởng dựa trên khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đơn giản, công nghiệp hóa và hiện đại hóa là không thể thiếu.
Và vì lý do đó, chuyển đổi số là đúng, là cần, nhưng để tận dụng lợi thế của chuyển đổi số, chúng ta cũng cần phát triển các lĩnh vực công nghệ cao về thiết kế, khuôn mẫu, cơ khí chính xác, tự động hóa, đặc biệt là vật liệu... Điều này đúng cho cả quốc gia và doanh nghiệp: Không tự chủ về công nghệ sẽ khó tự chủ về kinh tế!
Chúng ta tự tin vào tương lai của đất nước nhưng cũng cần cảnh giác trước những bài học từ một số quốc gia: mở cửa cho đầu tư nông nghiệp mà không đi kèm với hành lang pháp lý phù hợp sẽ dẫn đến cạn kiện nghị tài nguyên nông nghiệp, nông dân thuê ruộng của mình; số hóa và phát triển kinh tế số mà không tập trung vào phát triển công nghệ nền tảng để chuyển đổi dữ liệu thành tài nguyên quốc gia, biến dữ liệu thành tiền... Dữ liệu số sẽ trở thành tài nguyên cho các tập đoàn công nghệ nước ngoài, kết quả là người dân thuê trong nhà của mình!
Trong phát triển kinh tế, các doanh nghiệp hàng đầu sẽ quyết định sự phát triển của những doanh nghiệp sau. Chiến lược của các quốc gia là cứ mỗi ngành phải xây dựng 3 - 5 doanh nghiệp hàng đầu, để dẫn dắt công nghệ, kinh tế, dẫn dắt thị trường của ngành đó. Trong lĩnh vực cơ khí chế tạo, rất vui khi thấy anh Phạm Nhật Vượng đưa VinFast sang Mỹ. Điều này là niềm tự hào của Việt Nam. Nếu có chính sách tốt, chúng ta sẽ có nhiều doanh nghiệp hàng đầu để dẫn dắt chuỗi cung ứng quốc gia vào thị trường quốc tế.
Điểm yếu của doanh nghiệp Việt khi quen kéo bạn bè, vợ chồng cùng điều hành
* Trong 11 tháng đầu năm 2021, hơn 100.000 doanh nghiệp đã rút lui khỏi thị trường do ảnh hưởng của Covid-19. Theo quan điểm của tôi, điểm mà doanh nghiệp Việt cần được hỗ trợ nhất trong giai đoạn mong manh này là gì?
Rõ ràng, Covid-19 đã có tác động lớn đối với kinh tế - xã hội. Đối với doanh nghiệp, Covid-19 ảnh hưởng đến nhiều khía cạnh, nhưng tác động rõ nhất là đến mô hình quản trị. Chuyển từ làm việc trực tiếp sang online, từ quản lý trực tiếp sang phân tán, giao việc và quản lý trên các phần mềm. Thay đổi mô hình kinh doanh giúp giảm chi phí nhân công và tăng hiệu suất, hiệu quả. Việc chuyển từ bán hàng trực tiếp sang online, đặc biệt là về vấn đề nguyên liệu cũng có ảnh hưởng lớn.
Vì vậy, một trong những nỗ lực của VCIC là hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là SMEs (doanh nghiệp nhỏ và vừa), trong việc áp dụng các mô hình quản trị tiên tiến dựa trên phần mềm quản lý, tối ưu hóa mô hình quản trị, áp dụng các chuẩn quản trị hiện đại vào mô hình doanh nghiệp. Một trong những thách thức lớn nhất của SMEs là dựa vào mối quan hệ gia đình.
Ví dụ, có công ty với bố là Chủ tịch HĐQT, mẹ làm Giám đốc, con làm Kế toán trưởng, hoặc mô hình bạn bè, các nhóm đứng ra để thành lập doanh nghiệp mà không dựa trên chuẩn quản trị hiện đại. Do đó, khi gặp khó khăn, hùn vốn cùng nhau không gặp vấn đề, nhưng khi bắt đầu có thu nhập, quyền lợi sẽ nảy sinh và nếu không có nguyên tắc quản trị, quy chế quản trị, hệ thống quản trị hiện đại, sẽ dẫn đến sự tan vỡ. Điều này phản ánh mô hình quản trị phương Đông, đặc biệt là ở Việt Nam, dựa trên tình cảm hơn là nguyên tắc pháp lý hoặc quy chế quản trị.
Trong thời gian gần đây, VCIC đã tổ chức nhiều khóa đào tạo về kỹ năng quản trị để biến người chưa phải doanh nhân thành doanh nhân thực thụ, biến ý tưởng công nghệ thành một sản phẩm thực tế. Chúng tôi cũng đã tổ chức các buổi kiểm tra từ báo cáo tài chính, hạch toán sổ sách cho đến dòng tiền, kinh doanh bán hàng, 'khám sức khỏe' cho doanh nghiệp, đưa ra các phác đồ tư vấn cho đội ngũ quản trị doanh nghiệp. Kết quả là các doanh nghiệp trong dự án của VCIC đã có tăng trưởng đáng kể, nhiều doanh nghiệp đạt được tốc độ tăng trưởng gấp đôi so với năm 2020, dù trong thời kỳ khó khăn vì Covid.
* Có nhiều loại doanh nghiệp, tại sao tôi và VCIC quan tâm đến các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ để ứng phó với biến đổi khí hậu?
Theo tính toán của các chuyên gia quốc tế, chi phí ngân sách của Việt Nam để giải quyết thách thức biến đổi khí hậu ước tính khoảng 37 tỷ USD. Ngân hàng Thế giới (WB) đề xuất rằng thay vì Nhà nước chi ra 37 tỷ USD để giải quyết vấn đề này, thì đầu tư vào các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo có thể giảm tổng chi phí xuống còn 2,5 tỷ USD.
Qua các hoạt động hỗ trợ từ vốn đầu tư, vốn khởi nghiệp đến hỗ trợ kỹ thuật, sẽ tạo ra một đội ngũ doanh nhân, doanh nghiệp phát triển và kinh doanh các sản phẩm sáng tạo về biến đổi khí hậu. Điều này biến thách thức của biến đổi khí hậu thành cơ hội kinh doanh và sản phẩm hữu ích cho cộng đồng.
* Cảm ơn!