Nêu một yếu tố biểu tượng trong bài thơ và lý do lựa chọn. Em hiểu thế nào về tâm trạng “buồn không nói”, “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi” của “Ít nhiều thiếu nữ” trong hai câu kết của bài thơ? Điều này chỉ ra mạch cảm xúc chính trong bài thơ.
Câu 1
Câu 1 (trang 12, SBT Ngữ Văn 11, tập hai):
Nêu một yếu tố biểu tượng trong bài thơ và lý do lựa chọn.
Phương pháp giải:
Xem lại Kiến thức Ngữ Văn (phần về đặc điểm của thơ biểu tượng) để trả lời câu hỏi này.
Lời giải chi tiết:
Yếu tố biểu tượng rõ nhất trong thơ là sự ẩn dụ biểu cảm. Trong Đây mùa thu tới, ẩn dụ biểu cảm được thể hiện qua dòng thơ: “Đã nghe rét mướt luồn trong gió”. Trong câu thơ này: “rét mướt” (cảm giác) đã được chuyển hóa thành âm thanh (nghe) và hình ảnh (luồn). Trong suy nghĩ thông thường, gió và rét thường đi kèm. Câu thơ của Xuân Diệu tách biệt gió và rét thành hai thực thể riêng biệt. Phần rét được mô tả trong tình trạng ẩn dụ, không rõ ràng.
Để làm rõ điều này hơn, có thể so sánh câu thơ của Xuân Diệu với câu thơ của Nguyễn Khuyến (cũng mô tả sự lạnh của mùa thu): “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” hoặc câu thơ của Đỗ Phủ: “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm/ Vu sơn vu giáp khí tiêu sâm” (“Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong/ Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt”).
Câu 2
Câu 2 (trang 12, SBT Ngữ Văn 11, tập hai):
Em hiểu thế nào về tâm trạng “buồn không nói”, “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi” của “Ít nhiều thiếu nữ” trong hai câu kết của bài thơ? Điều này chỉ ra mạch cảm xúc chính trong bài thơ.
Phương pháp giải:
Phân tích và chú ý đến chi tiết miêu tả tâm trạng “buồn không nói”, “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi” của “Ít nhiều thiếu nữ” trong hai câu kết của bài thơ để trả lời cho câu hỏi đề bài.
Lời giải chi tiết:
- Cảm xúc chính của Đây mùa thu tới ẩn chứa sâu sắc và chỉ được tiết lộ ở cuối bài thơ:
+ Tâm trạng “buồn không nói”, “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi” của những người thiếu nữ trong bài thơ có thể trước hết là sự lo lắng trước thời gian: vội vã, không chờ đợi, tất cả sẽ mất đi, trở nên nhạt nhòa và héo úa. Bức tranh thu nhắc nhở người thiếu nữ về sự thay đổi: không có gì là vĩnh cửu, kể cả tuổi trẻ. Nhưng cùng với sự lo lắng còn là khao khát sống, khao khát yêu, khao khát hòa mình. Hai ý tưởng này không đối lập mà liên quan và là kết quả của nhau. Sự lo lắng thúc đẩy khao khát sống và yêu. Ngược lại, chính khao khát sống và yêu làm nổi lên nỗi lo lắng trước thời gian.
+ Bài thơ diễn ra từ những cảnh lạnh lẽo và khô khan của môi trường đến sự ấm áp, sôi nổi trong tâm trí của những người phụ nữ. Điều này cũng là mạch cảm xúc chính trong bài thơ.
Câu 3
Câu 3 (trang 12, SBT Ngữ Văn 11, tập hai):
Nêu và lí giải một số điểm khác nhau về nội dung và nghệ thuật giữa Đây mùa thu tới của Xuân Diệu với Thu hứng của Đỗ Phủ hoặc Thu điếu của Nguyễn Khuyến.
Phương pháp giải:
Đọc lai các văn bản, chọn được những dẫn chứng tiêu biểu, phân tích để làm bật lên những điểm khác nhau về nội dung và nghệ thuật giữa Đây mùa thu tới
Lời giải chi tiết:
Có thể lập bảng để nhận diễn những khác biệt về nội dung và nghệ thuật giữa Đây mùa thu tới của Xuân Diệu với Thu hứng của Đỗ Phủ hoặc Thu điếu của Nguyễn Khuyến như sau:
|
Thu hứng và Thu điếu |
Đây mùa thu tới |
Cảnh |
Bức tranh thu được tạo dụng từ những chi tiết tiêu biểu, điển hình nhất của mùa thu. Trong Thu điếu: vẻ đẹp làng cảnh với màu xanh của bầu trời, tre trúc, mặt nước. Trong Thu hứng: vẻ đẹp hùng vĩ, hắt hiu của nơi biên ải. |
Vẻ đẹp gợi cảm của mùa thu. Đặc biệt, cảnh thu được miêu tả trong bước đi của thời gian. Với Xuân Diệu, mùa thu đang đến cũng là mùa thu đang qua đi. Nếu cái rét mướt trong Thu hứng là ở hiện thực khách quan thì cái rét mướt trong Đây mùa thu tới là ở trong cách thụ cảm thế giới theo bước đi thời gian của Xuân Diệu. |
Tình |
Trầm buồn gắn với những cảm xúc về thời cuộc. |
Âu lo trước sự biến dịch của thời gian và nồng nàn với khao khát sống, kết đôi. |
Ngôn ngữ |
Ngôn ngữ hàm súc - điêu luyện. Với Thu điếu là cách dùng vần hóc hiểm, cách sử dụng các từ láy, sự lựa chọn từ ngữ rất tinh tế mà tự nhiên như lời nói thường. Với Thu hứng là biện pháp rút gọn để làm nên sự hàm súc đa nghĩa của lời thơ. |
Ngôn ngữ vừa có sự hàm súc điêu luyện vừa có sự tân kì do những ảnh hưởng từ thơ ca phương Tây: cách dùng từ, sử dụng các ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Chính điều này đã khiến Đây mùa thu tới có khả năng tạo ra một vẻ đẹp mới cho đề tài mùa thu trong thơ ca Việt Nam. |
Câu 4
Câu 4 (trang 12, SBT Ngữ Văn 11, tập hai):
Phân tích vẻ đẹp đặc biệt của câu thơ: Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Phương pháp giải:
Đây là một câu hỏi bổ sung cho câu hỏi 3 (Đây mùa thu tới bên cạnh vẻ đẹp mới mẻ, còn mang trong mình vẻ đẹp tinh tế, phức tạp của thơ cổ điển). Từ đó, phân tích, mở rộng thêm dựa trên những điều đã thực hiện để đáp ứng yêu cầu của câu hỏi.
Lời giải chi tiết:
Câu thơ chỉ có 7 từ nhưng đã có 5 từ để miêu tả sự yếu đuối thiếu sức sống của cảnh vật. Đây là cách viết của thơ cổ điển. Nếu nghệ thuật chấm dứt là nghệ thuật của sự đơn giản (chỉ cần một số nét nhưng vẫn gợi lên bản chất của vật thể) thì nghệ thuật của thơ cổ điển sử dụng một chuỗi các chi tiết bổ sung, hỗ trợ nhau để mô tả một trạng thái, đặc tính của vật thể. Trong câu thơ của Nguyễn Khuyến: “Sóng biếc theo làn hơi gợn tí” cũng là một ví dụ cho phong cách này.
Câu 5
Câu 5 (trang 12-13, SBT Ngữ Văn 11, tập hai):
Cảm nhận về bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, nhà thơ - nhà phê bình Vũ Quần Phương viết:
“Một lý do khác tạo nên sức hút của mùa thu: đó là ảnh hưởng từ thơ Đường, từ mùa thu phương Bắc trong văn chương cổ Trung Quốc đối với thi sĩ Việt Nam. Mùa thu phương Bắc lạnh lẽo, có tuyết, cây khô, lá rụng, hiu quạnh buồn bã. Mùa thu ở chúng ta, cây xanh lá, trời se lạnh nhưng chưa đến mức rét mướt, mây mùa thu cao xanh nhưng chưa phải là u ám. Do đó, mùa thu trong thơ Việt Nam, dù có tuyết, lá vàng, cành khô lạnh mướt, cũng do sự ảnh hưởng từ văn chương đã tạo ra [...] Bài thơ của Xuân Diệu có bối cảnh Việt Nam, nhưng nếu gọi là Đây mùa đông tới thì có lẽ sẽ đúng hơn”.
Phương pháp giải:
Tiếp cận nhận định của Vũ Quần Phương về bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu, đồng ý hoặc không đồng ý. Đồng thời, cần cung cấp lí do và dẫn chứng để chứng minh quan điểm của mình.
Lời giải chi tiết:
Có thể đồng ý, phản đối hoặc cả hai.
Một khía cạnh, quan điểm của Vũ Quần Phương là chính xác khi nhận ra ảnh hưởng của thơ Đường trong bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu. Thực tế, thơ Đường đã để lại dấu ấn rõ ràng trong việc lựa chọn tác phẩm (liễu, trăng, thiếu nữ…), trong việc sử dụng nghệ thuật công bút (xem câu 4), trong việc miêu tả cái lạnh.
Mặt khác, nếu nghĩ rằng cái lạnh trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chỉ đến từ ảnh hưởng của thơ Đường thì có lẽ chưa đầy đủ. Cái lạnh trong Đây mùa thu tới còn đến từ cách hiểu về thế giới trong quá trình thời gian trôi - điều mà Xuân Diệu đã học từ thơ phương Tây. Với Xuân Diệu, mùa thu tới cũng là mùa thu sắp qua. Bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu có một dòng thơ rất tiêu biểu cho cách hiểu này:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sắp già.
Hiểu được cách hiểu này sẽ giải thích tại sao những dấu hiệu của mùa đông đã đầy trong bài thơ. Chính cái nhìn sâu sắc vào sự thật của thời gian này đã tạo nên cái lạnh rất đặc biệt trong Đây mùa thu tới.
Câu 6
Câu 6 (trang 13, SBT Ngữ Văn 11, tập hai):
Đánh giá về cách chấm câu trong bài thơ Đây mùa thu tới. Phân tích tác dụng nghệ thuật của cách chấm câu trong một khổ thơ mà bạn cho là nổi bật nhất trong bài thơ.
Phương pháp giải:
Cần phân biệt rõ hai khái niệm dòng thơ và câu thơ; dựa vào đó nhận diện ý nghĩa nghệ thuật của việc sắp xếp câu thơ.
Lời giải chi tiết:
Bài thơ có cách chấm câu mềm dẻo và đi kèm với đó là sự đa dạng của biểu cảm. Cần tập trung vào những hiện tượng đặc biệt và mang tính nghệ thuật:
- Câu thơ 3 - 4 là những câu thơ liền mạch: đọc phải liên tục, không ngừng ở cuối dòng. Câu thơ liền mạch ở trường hợp này giúp diễn đạt sự đồng thời giữa “mùa thu đến” và “bộ váy mơ phai”, qua đó thể hiện sự chuyển động nhanh chóng của thời gian; mùa thu bất ngờ hiện ra với màu sắc quyến rũ.
- Khổ thơ cuối cùng cũng có sự sắp xếp câu thơ đặc biệt. Câu thơ 13 và câu thơ 14: dòng thơ và câu thơ tương đồng (được kết thúc bằng dấu chấm), vì thế đọc chậm. Nhưng câu thơ 15 và câu thơ 16 thì hai dòng thơ tạo thành câu thơ, vì thế phải đọc nhanh hơn, liền mạch để thể hiện sự hoà nhập giữa hình thái và tâm trạng của người thiếu nữ dường như hòa nhập thành một, hoàn toàn hỗn hợp vào nhau.
- Khổ thơ thứ 3 thì ở cuối mỗi câu thơ đều là dấu (..) vì vậy phải đọc chậm để tạo hình ảnh về cái rét lan rộng vào không gian rộng lớn của đất trời.