Phân tích về nhà văn Nam Cao 9 mẫu nổi bật, mang đến cho các học sinh thêm nhiều thông tin hữu ích về hành trình sáng tạo, cuộc sống, và sự nghiệp viết văn của tác giả Nam Cao.
Nhà văn Nam Cao được xem là một trong những người viết văn nổi tiếng của văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt quan tâm đến tâm trạng tinh thần của con người, thể hiện tình yêu đất nước sâu sắc, tha thiết. Mời các bạn cùng đọc bài viết dưới đây để hiểu sâu hơn về Văn thuyết minh.
Phác thảo ý tưởng về nhà văn Nam Cao
1. Bắt đầu
- Giới thiệu tổng quan về tác giả Nam Cao.
2. Nội dung chính
* Tiểu sử nhà văn Nam Cao:
- Nam Cao (1917 - 1951), tên thật là Trần Hữu Tri.
- Quê quán: làng Đại Hoàng, xã Cao Đà, huyện Nam Sang, tỉnh Hà Nam.
- Sau khi tốt nghiệp trung học, anh ra Sài Gòn kiếm sống, nhưng chỉ sau 3 năm đã quay về quê.
- Làm giáo viên ở ngoại ô Hà Nội, gặp nhiều khó khăn nhưng vẫn cố gắng bằng cách viết văn, dạy học.
- Năm 1943, anh tham gia phong trào Văn hóa cứu quốc.
- Từ năm 1946, anh là phóng viên của đoàn Nam tiến vào Nam Trung Bộ.
- Từ năm 1947 đến 1950, anh tham gia chiến dịch Biên Giới ở Việt Bắc. Năm 1951, anh bị lính du kích tấn công và thiệt mạng.
* Nhân cách của nhà văn Nam Cao:
- Dù bề ngoài lạnh lùng, vụng về và ít nói, nhưng bên trong lại là một tâm hồn phong phú.
- Ông có tấm lòng rộng lớn, chứa đựng nhiều tình yêu thương.
* Sự nghiệp sáng tác của nhà văn Nam Cao:
- Ông theo đuổi quan điểm nghệ thuật tiến bộ, tự giác, có hệ thống và nhất quán.
- Ông coi trọng tư tưởng nhân đạo là điều không thể thiếu, đòi hỏi sự sáng tạo và lương tâm cao của nhà văn.
- Các đề tài chính của ông bao gồm người trí thức nghèo, người nông dân nghèo và văn xuôi kháng chiến.
- Phong cách nghệ thuật của ông độc đáo, quan tâm đến cuộc sống tinh thần của con người.
3. Kết luận
- Đề cao những giá trị và đóng góp to lớn của tác giả Nam Cao cho văn học Việt Nam.
Bản thuyết minh về nhà văn Nam Cao
Tác giả Nam Cao - dù chỉ có tuổi nghề trên 10 năm nhưng lại liên kết cả hai giai đoạn quan trọng của lịch sử Việt Nam trước và sau năm 1945. Những tác phẩm của Nam Cao đã trở thành điểm sáng trong lịch sử văn học hiện đại của Việt Nam. Ông là một trong những tác giả hiếm hoi kết nối mật thiết giữa đời sống và văn chương, thể hiện rõ trong tác phẩm của mình.
Nam Cao, tên khai sinh là Trần Hữu Tri, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học Việt Nam. Sinh năm 1917 trong một gia đình nông dân, ông đã trải qua những khó khăn và gian khổ để theo đuổi đam mê văn chương. Cuộc đời và sự nghiệp của Nam Cao gắn bó chặt chẽ với cách mạng và cuộc kháng chiến, làm nên những tác phẩm văn học bất hủ.
Nam Cao từng mô tả về bản thân mình như là 'có một khuôn mặt không phải dễ thương'. Dù bề ngoài lạnh lùng và ít nói, tâm hồn của ông lại phong phú và sôi động. Ông luôn đấu tranh để ý thức làm sao để hành động và suy nghĩ của mình không bao giờ mất đi phẩm giá, tránh xa khỏi sự tầm thường và nhỏ nhen.
So với các nhà văn cùng thời với Nam Cao, quan điểm về nghệ thuật của ông có phần tiên tiến hơn, tự giác và nhất quán. Đối với Nam Cao, nghệ thuật phải tập trung vào con người và những giá trị tốt đẹp của họ. Ông nhận thấy rằng văn chương lãng mạn không phản ánh đúng thực tại đời sống đau khổ của con người. Ông phê phán việc tạo ra những tác phẩm chỉ tả vỏ ngoài của xã hội, và khẳng định rằng nghệ thuật phải có tư tưởng nhân đạo và sự sáng tạo.
Nam Cao, theo chủ nghĩa hiện thực, đã đặt lợi ích của dân tộc lên hàng đầu. Ông tham gia vào kháng chiến và sáng tác với mục tiêu tôn vinh lịch sử dân tộc. Các tác phẩm của ông chia thành hai giai đoạn lịch sử: trước và trong Cách mạng. Trước Cách mạng, ông viết về người trí thức nghèo và người nông dân nghèo, trong khi trong Cách mạng, ông tập trung vào đề tài chiến tranh và người lính. Phong cách nghệ thuật của Nam Cao độc đáo, tập trung vào tâm lý nhân vật và thể hiện triết lí sâu sắc về con người và cuộc sống.
Tác giả Nam Cao vừa là nhà văn hiện thực vừa là nhà nhân đạo. Các tác phẩm của ông thể hiện rõ giá trị nghệ thuật và nhân văn, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. Ông là một trong những tác giả lớn của văn học Việt Nam, đóng góp to lớn cho nền văn học của đất nước.
Thuyết minh về nhà văn Nam Cao - Mẫu 1
Nam Cao sinh năm 1915, tên khai sinh là Trần Hữu Tri, quê ở làng Đại Hoàng (nay thuộc xã Hoà Hậu, huyện Lí Nhân, tỉnh Hà Nam).
Khi còn nhỏ, Nam Cao sống ở làng và thành phố Nam Định. Từ năm 1936, ông bắt đầu viết văn được in trên các báo: Tiểu thuyết thứ bảy, ích hữu... Năm 1938, ông dạy học tư ở Hà Nội và bắt đầu làm quen với việc viết báo. Năm 1941, ông chuyển sang dạy học tư ở Thái Bình. Năm 1942, ông quay về quê, tiếp tục sự nghiệp văn chương. Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội Văn hoá cứu quốc. Trong Cách mạng Tháng Tám 1945, ông tham gia cướp chính quyền ở phủ Lí Nhân và được bổ nhiệm làm chủ tịch xã. Năm 1946, ông đến Hà Nội, tham gia Hội Văn hoá cứu quốc và làm thư ký tạp chí Tiên phong của Hội. Trong cùng năm, ông tham gia đoàn quân Nam tiến làm phóng viên, hoạt động ở Nam Bộ. Sau đó trở lại nhận nhiệm vụ ở Ti Văn hoá Nam Hà. Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc, làm phóng viên cho báo Cứu quốc và tham gia biên tập báo Cứu quốc Việt Bắc. Năm 1950, ông tham gia tạp chí Văn nghệ (thuộc Hội Văn nghệ Việt Nam) và là thành viên Tiểu ban Văn nghệ Trung ương. Năm 1951, ông tham gia đoàn công tác thuế nông nghiệp ở khu III, nhưng bị địch phục kích và hy sinh.
Những tác phẩm của Nam Cao trước cách mạng tập trung vào hai chủ đề chính: Cuộc sống của những người tiểu tư sản trí thức nghèo và cuộc sống của người nông dân. Dù viết về chủ đề nào, Nam Cao luôn chú trọng đến tình trạng của người lao động bị đói bát, bị mòn giả.
Trong đề tài về tiểu tư sản trí thức nghèo, những tác phẩm như 'Trăng sáng', 'Đời thừa', 'Mua nhà', 'Truyện tình', 'Quên điều độ”... cùng với tiểu thuyết 'Sống mòn' (1944) là những tác phẩm nổi bật. Nam Cao mô tả chân thực và cảm động về cuộc sống khó khăn, thăng trầm của những người trí thức nghèo, đồng thời phê phán xã hội vô nhân đạo đã làm tổn thương tinh thần và sống cuộc của họ.
Về đề tài về người nông dân: sinh ra và lớn lên trong môi trường nông thôn, Nam Cao hiểu biết sâu sắc về cuộc sống của họ. Ông để lại nhiều truyện ngắn giá trị về người nông dân, đặc biệt là 'Lão Hạc”, 'Chí phèo”, 'Trẻ con không được ăn thịt chó', 'Mua danh', 'Tư cách mõ', 'Một bữa no', 'Một đám cưới', 'Dì Hảo', 'Điếu văn”, “Lang Rận”, “Nửa đêm'... Trong những tác phẩm này, Nam Cao không chỉ mô tả cảm động về số phận đen tối của họ mà còn khẳng định phẩm chất cao quý và tinh thần lương thiện của họ.
Tương tự như các nhà văn khác, Nam Cao cũng không thấy được triển vọng của xã hội trong tương lai. Tuy nhiên, trong truyện ngắn 'Điếu văn' (1944), ông đã viết về hi vọng vào tương lai sáng sủa hơn. Đó là lời chào đón nồng nhiệt cho sự bắt đầu mới, điểm sáng trong tương lai đầy hứa hẹn.
Sau cách mạng tháng Tám: Nam Cao là một trong số ít nhà văn đã tham gia vào cách mạng từ ngay đầu. Năm 1948, Ông gia nhập Đảng, tham gia Hội văn hoá cứu quốc, tích cực tham gia hoạt động cách mạng, kháng chiến, và làm Thư ký Tạp chí 'Tiền Phong'. Năm 1947 làm thư ký tòa soạn báo 'Cứu quốc Việt Bắc'. Năm 1950 nhận công tác ở tạp chí 'Văn nghệ'.
Nam Cao được coi là một trong những cây bút nổi bật nhất trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong giai đoạn này, ông đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị như: Nhật ký 'Ở rừng' (1948) và 'Chuyện biên giới' (1950), đặc biệt là truyện ngắn 'Đôi mắt' (1948) ra đời giữa lúc giới văn nghệ đang đối mặt với khó khăn là một thành công xuất sắc của văn nghệ kháng chiến. Thông qua việc phê phán một nghệ sĩ có 'đôi mắt' nhìn thế giới không chính xác, ông khẳng định quyết tâm 'cách mạng hóa tư tưởng, quần chúng hóa sinh hoạt', trở thành người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá, 'Đôi mắt” xứng đáng là một tuyên ngôn nghệ thuật của tầng lớp văn nghệ tiểu tư sản theo đuổi kháng chiến.
Nam Cao có tài trong việc mô tả và phân tích tâm lý con người. Ngôn ngữ của ông sống động, tinh tế và gần gũi với lời ăn, tiếng nói của quần chúng. Ghi nhận đóng góp của Nam Cao cho văn học dân tộc, Nhà nước đã tặng thưởng ông giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học - nghệ thuật 1 thuật (đợt I - năm 1996). Nam Cao là lá cờ đầu của truyện ngắn Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Thuyết minh về nhà văn Nam Cao - Mẫu 2
Nam Cao (1915 – 1951) là một trong những nhà văn lớn nhất của văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời gian, ngày càng tỏa sáng hơn. Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của ông càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật tinh tế, độc đáo.
Nam Cao là một trong những nhà văn lớn nhất của phong trào văn học hiện thực phê phán từ năm 1930 đến 1945. Trong số các tác giả hiện thực, ông là người có nhận thức sâu sắc nhất về quan điểm văn học của mình. Ông phê phán toàn diện và quyết liệt tính chất thoát ly, tiêu cực của văn chương lãng mạn đương thời, xem đó là thứ “ánh trăng lừa dối”. Đồng thời, ông yêu cầu nghệ thuật chân chính phải trở về với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói lên được nỗi thống khổ của hàng triệu lao động (Giăng sáng).
Xuất hiện trong thời kỳ phong trào văn học hiện thực đạt được nhiều thành tựu, Nam Cao ý thức sâu sắc rằng: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ cần những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi dậy những nguồn chưa khai phá, và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa, 1943). Và Nam Cao đã thực sự tìm được cho mình một hướng đi riêng trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực. Nếu như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố – những nhà văn hiện thực xuất sắc thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936 – 1939) tập trung phản ánh trực tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội. Thì sáng tác của Nam Cao – đại diện ưu tú nhất của phong trào hiện thực chặng đường cuối cùng (1940 – 1945), trừ truyện ngắn Chí Phèo (mà theo tôi là dư âm còn sót lại của thời kỳ 1936 – 1939) trực tiếp đề cập tới xung đột giai cấp, còn các tác phẩm khác đều tập trung thể hiện xung đột trong thế giới nội tâm của nhân vật. Hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ không tạo điều kiện cho Nam Cao đi thẳng vào những vấn đề cấp bách nhất của xã hội, không trực tiếp miêu tả những sự kiện có ý nghĩa xã hội lịch sử rộng lớn. Nhiều tác phẩm của ông được dệt lên từ những chi tiết “hàng ngày” chủ yếu liên quan đến cuộc sống riêng tư của các nhân vật, những sự kiện vặt vãnh, nhỏ nhoi, tủn mủn mà nhà văn gọi là “những chuyện không muốn viết”. Chưa bao giờ những chi tiết vặt vãnh hàng ngày lại có một sức mạnh ghê gớm như trong sáng tác của Nam Cao. Chỉ cần tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng cũng đủ sức lôi tuột văn sĩ Điền đang nhởn nhơ trên chín tầng mây với ánh trăng giống như “cái vú mịn tròn đầy” xuống mặt đất với biết bao cực khổ lầm than (Giăng sáng). Miếng cơm, manh áo hàng ngày cùng với những xích mích vặt vãnh, những ghen tuông vớ vẩn, những đố kỵ nhỏ nhen cũng dư thừa sức mạnh khống chế, giam cầm chung thân mấy anh giáo khổ trường tư trong cái ao tù ngột ngạt của những kiếp “Sống mòn’. Cả lý tưởng nhân đạo cao cả, cả hoài bão nghệ thuật chân chính đều có nguy cơ chết mòn trước sự tấn công quyết liệt, dai dẳng và tàn bạo của cái trong “Đời thừa’… Từ những chi tiết vặt vãnh đời thường, Nam Cao đã thực sự động chạm đến vấn đề có tính nhân văn, đã đặt ra những vấn đề sâu sắc về cuộc sống, về thân phận của con người, về vấn đề cải cách xã hội, về tương lai của dân tộc và nhân loại. Bi kịch của đời thường, của những chi tiết vặt vãnh hàng ngày, qua ngòi bút đầy tài năng của Nam Cao đã trở thành những bi kịch vĩnh cửu.
Nam Cao là nhà văn của phong trào hiện thực tâm lý. Điều đó có liên quan chặt chẽ tới quan niệm về con người của ông. Nam Cao từng viết trong “Sống mòn”: “Sống tức là cảm giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động”. Một quan niệm về con người như thế đã chi phối thủ pháp phong trào hiện thực tâm lý của Nam Cao. Sự chú ý đặc biệt tới thế giới nội tâm của con người đã thường xuyên kích thích sự sáng tạo ngày càng tăng của nhà văn đối với tính cách đa dạng của con người, động cơ bên trong của hành vi nhân vật và mối quan hệ phức tạp của nó với hiện thực xung quanh.
Với Nam Cao, việc phản ánh chân thực tư tưởng, nội tâm nhân vật là quan trọng hơn tất cả. Trong sáng tác của ông, những chi tiết tâm lý thường thay thế cho sự kiện, biến cố, để nhân vật bộc lộ những nét tính cách của mình. Ông tập trung vào việc miêu tả nội tâm, phản ứng tâm lý của con người trước những khó khăn của cuộc sống, thay vì tập trung vào sự kiện ngoại cảnh. Qua ngòi bút của ông, tâm hồn con người được thể hiện phong phú, đa dạng.
Trong sáng tác của Nam Cao, tâm hồn con người là sân khấu của những xung đột tư tưởng, ý tưởng. Ông thích ứng phương pháp hiện thực tâm lý, khám phá tâm trạng, tư tưởng của nhân vật. Việc miêu tả tâm lý là điều kiện cơ bản nhất để thể hiện con người theo phương pháp hiện thực. Qua việc khám phá tâm hồn con người, Nam Cao mở rộng phản ánh hiện thực.
Nam Cao mong muốn khai thác sâu sắc thế giới tâm hồn của con người. Ông tập trung vào việc miêu tả nội tâm của nhân vật, mở ra một khuynh hướng phân tích mới cho phương pháp hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam. Cảm hứng phân tích phê phán thấm nhuần trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao, trở thành “linh hồn” của phong trào hiện thực.
Nam Cao coi chủ nghĩa nhân đạo là nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực. Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của lòng nhân đạo trong việc tạo ra những tác phẩm có giá trị, có sức lan tỏa đến với mọi người.
Mỗi trang văn của Nam Cao đều thể hiện tấm lòng nhân ái và đau xót trước số phận khốn khổ của những người dân bị đày đọa bởi cuộc đời. Ông tập trung vào việc miêu tả những hoàn cảnh khó khăn, để lồng ghép vào đó là những tâm trạng, niềm hy vọng và thất vọng của con người.
Nam Cao là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, của những người trải qua cuộc sống khốn khổ trong xã hội phong kiến. Ông thể hiện sự cảm thông với những người thiếu nhân tính, bị tha hóa bởi xã hội. Tâm hồn nhân đạo của ông giúp ông nhìn thấu bản chất con người đằng sau lớp vỏ xấu xa và khốn nạn.
Nhà văn Nam Cao không chỉ viết về những người nông dân, mà còn viết về những người trí thức nghèo khổ, mang trong mình hoài bão và tâm huyết. Mỗi tác phẩm của ông là sự gửi gắm tình cảm và hi vọng cho những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, như một cách trả ơn và chia sẻ với cộng đồng.
Như Xuân Diệu và Thạch Lam, Nam Cao cũng nhận thức sâu sắc về ý thức cá nhân và ý nghĩa của sự tồn tại trên đời. Ông nhạy cảm với cuộc sống khó khăn, đầy cám dỗ và bế tắc, và những người không biết tận hưởng niềm vui và hạnh phúc. Tác phẩm của ông phản ánh niềm khao khát sống có ý nghĩa và vượt lên trên sự tồn tại sinh học.
Nam Cao thông qua các nhân vật như Điền, Hộ, Thứ... thể hiện khát vọng sống một cuộc sống ý nghĩa và có ích. Những nhân vật này mong muốn góp phần vào công việc tiến bộ chung của loài người và để lại di sản cho thế hệ sau.
Tư tưởng nhân đạo là trung tâm của sáng tác của Nam Cao. Ông không chỉ tố cáo sự tàn bạo của xã hội mà còn đề xuất tạo điều kiện cho con người sống một cuộc sống có ý nghĩa và phát triển đầy đủ khả năng.
Một tuyển tập tóm tắt về nhà văn Nam Cao - Mẫu 3
Nam Cao, một trong những nhà văn hiện thực nổi bật trong giai đoạn 1930-1945, đặc biệt nổi tiếng với việc viết về cuộc sống của người nông dân. Ông đã có nhiều đóng góp quan trọng cho văn học hiện thực Việt Nam trước cách mạng tháng Tám.
Trần Hữu Tri, sinh năm 1917 và ra đi năm 1951, là một cánh cổng cho tâm hồn văn chương của Nam Cao, đậm chất nhân văn và suy tư về đời sống nhân sinh.
Trên nền văn xuôi hiện đại của nền văn học Việt Nam, Nam Cao tỏa sáng như một ngôi sao hiếm hoi, ánh sáng của ông vẫn lung linh và đầy sức hút.
Tác phẩm văn học của Nam Cao như một dòng sông đầy sức sống, và trong đó, 'Lão Hạc' là một viên ngọc quý rực rỡ.
Truyện 'Lão Hạc' của Nam Cao không chỉ là câu chuyện về một người nông dân, mà còn là tấm gương sáng về lòng trung hiếu và tình yêu thương nhân sinh.
Thông qua cuộc đời và cái chết của lão Hạc, Nam Cao đã khắc họa một bức tranh sâu sắc về lòng nhân ái và sự kiên cường của con người Việt Nam.
Nhà văn Nam Cao để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học Việt Nam, tác phẩm của ông vẫn hiện hữu và lan tỏa giá trị nhân văn sâu rộng.
Mẫu thuyết minh về nhà văn Nam Cao số 4
Trần Hữu Tri, hay còn gọi là Nam Cao, sinh ra và lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo ở làng Đại Hoàng, nơi mà cảnh đời gian khổ và cảnh tượng của người nông dân gặp nhiều gian truân.
Cuộc đời của Nam Cao với những thăng trầm đầy khổ đau, vất vả nhưng cũng đong đầy tình yêu thương và lòng nhân đạo, là nguồn cảm hứng to lớn cho những tác phẩm văn học của ông.
Trước cách mạng, Nam Cao đã cảm nhận và thấu hiểu sâu sắc nỗi đau khổ của người dân nghèo, và đó cũng là nguồn động viên cho ông gắn bó với nghệ thuật và với nhân dân.
Nam Cao thường nhớ lại và hối hận về những sai lầm trong quá khứ. Anh luôn cố gắng vượt qua chính mình để đạt được lý tưởng trong cuộc sống và văn học.
Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Nam Cao là một ví dụ rõ ràng về sự hy sinh và dũng cảm, với lòng trung thành với nhân dân và lý tưởng cách mạng.
Nam Cao lên án văn chương chỉ tập trung vào bề ngoại của xã hội, và đề cao giá trị nhân đạo và sự sáng tạo trong nghệ thuật văn học.
Sự sáng tác của Nam Cao đặt ra những vấn đề xã hội lớn và phê phán sâu sắc những bất công và nghịch cảnh trong cuộc sống con người, đồng thời thể hiện lòng trung thành và lòng yêu nước của một nhà văn cách mạng.
Nam Cao để lại một loạt những truyện ngắn về cuộc sống khốn khó của người nông dân, với sự nhân văn sâu sắc và lòng yêu thương dành cho những người gặp khó khăn nhất.
Tình trạng suy thoái nhân phẩm và tinh thần trong xã hội thời đó làm cho Nam Cao cảm thấy đau lòng và bức xúc, và ông đã viết về điều này trong các tác phẩm của mình.
Nam Cao không chỉ nêu cao giá trị cách mạng mà còn tận mắt chứng kiến sự thay đổi và hy vọng trong tương lai của xã hội.
Văn của Nam Cao không chỉ là sự phản ánh chân thực về cuộc sống mà còn là sự hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người và triết lý trữ tình.
Nam Cao đã đóng góp quan trọng vào việc đổi mới văn xuôi Việt Nam, mang lại một diện mạo hiện đại và sáng tạo hơn cho văn học nước nhà.
Giới thiệu về nhà văn Nam Cao - Mẫu 5
Nam Cao (1917 - 1951) được coi là một trong những nhà văn hiện thực nổi bật nhất của văn học Việt Nam hiện đại.
Trần Hữu Tri, hay Nam Cao, sinh ra trong một gia đình nông dân tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, phủ Lý Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Sau thời gian sống và sáng tác ở Sài Gòn, ông trở về quê và dạy học tại một trường tư thục ở ngoại ô Hà Nội.
Dù bề ngoài có vẻ lạnh lùng và ít nói, nhưng bên trong, Nam Cao là một người có tấm lòng rộng lớn, yêu thương và gắn bó sâu đậm với quê hương và nhân dân.
Trong suốt sự nghiệp văn chương, Nam Cao luôn suy nghĩ về mối liên kết giữa việc sống và việc viết, và ông luôn đặt ra những tiêu chuẩn cao về nghệ thuật của mình.
Các tác phẩm của nhà văn Nam Cao xoay quanh hai chủ đề chính. Đó là cuộc sống cay đắng của người nông dân bị áp bức, với những tác phẩm nổi tiếng như Lão Hạc, Chí Phèo, Dì Hảo, Một bữa no, Một đám cưới, Trẻ con không được ăn thịt chó, Mua danh… Và cuộc sống khó khăn của người trí thức nghèo mòn mỏi trong xã hội cũ: Đời thừa, Giăng sáng, Những truyện không muốn viết, Mua nhà, Quên điều độ, Cười… Dù viết về người nông dân hay người trí thức, các tác phẩm của Nam Cao luôn chứa đựng một nội dung triết học sâu sắc. Ông luôn quan tâm đến vấn đề nhân phẩm, thái độ đối với con người. Thậm chí ông cảm thấy đau đớn khi chứng kiến sự bất công xã hội đối với những người nghèo, làm hỏng ước mơ và lẽ sống cao đẹp của họ. Các tác phẩm của Nam Cao sau cách mạng chủ yếu phục vụ cho cuộc chiến tranh cách mạng, với các tác phẩm như: Nhật ký ở rừng (1948), truyện ngắn Đôi mắt (1948), tập kí sự Chuyện biên giới (1950)...
Mỗi nhà văn đều có phong cách sáng tạo riêng. Đó là dấu vân tay đặc trưng của họ. Nam Cao cũng không ngoại lệ. Ông nổi tiếng với khả năng diễn đạt tài tình và phân tích tâm lý nhân vật. Nam Cao tỏ ra rất lanh lợi trong việc phân tích và mô tả các trạng thái, quá trình tâm lý phức tạp, hiện tượng lưỡng tính như say mê và tỉnh táo, buồn cười và đau khổ... Ngoài ra, ông còn sáng tạo ra những đoạn hội thoại, nội tâm rất chân thực và sống động.
Như vậy, Nam Cao thực sự là một tác giả xuất sắc của văn học hiện thực Việt Nam. Người đọc yêu thích văn học của Nam Cao sẽ mãi nhớ những giá trị sâu sắc mà ông mang lại trong các tác phẩm.
Giới thiệu về nhà văn Nam Cao - Mẫu 6
Nam Cao (1917 - 1951) là một nhà văn nhân đạo lớn của Việt Nam. Ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển văn học ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa trong nửa đầu của thế kỷ XX.
Tên thật của Nam Cao là Trần Hữu Tri. Nguyên quán làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay là xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Ông được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng 8, với những tác phẩm ngắn, truyện dài chân thực viết về người nông dân bị áp bức và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao tiếp tục sáng tác tận tụy phục vụ kháng chiến. Ông đã hi sinh trên đường vào vùng sau lưng địch tháng 11 năm 1951.
Nam Cao luôn tin rằng: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên mọi giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì đó lớn lao, mạnh mẽ, đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng… Nó làm cho người gần nhau hơn” (Đời thừa, 1943). Đối với văn chương, Nam Cao cho rằng: “Văn chương không cần những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ cần những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi dậy những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những gì chưa có” (Đời thừa, 1943). Ông cũng nói rằng: “Nghệ thuật phải phản ánh cuộc sống” - văn chương phải hướng đến cuộc sống của con người.
Nam Cao là một nhà văn có tài diễn tả, phân tích tâm lý nhân vật. Nam Cao tỏ ra rất sắc sảo trong việc phân tích và mô tả các trạng thái, quá trình tâm lý phức tạp, hiện tượng lưỡng tính như say mê và tỉnh táo, buồn cười và đau khổ… Ngoài ra, ông cũng tạo ra những đoạn hội thoại, monologue nội tâm rất chân thực, sinh động.
Các tác phẩm của Nam Cao trước Cách mạng tập trung vào hai chủ đề chính: người trí thức nghèo và người nông dân nghèo. Về người trí thức nghèo, Nam Cao mô tả sâu sắc nỗi khổ tinh thần của họ trong xã hội trước 1945, những “giáo khổ trường tư” - những nhà văn nghèo, viên chức nhỏ. Họ là những trí thức có hoài bão, tâm huyết và tài năng; nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội khó khăn làm cho họ “chết mòn” và phải sống như “một kẻ vô ích, một người thừa”. Nam Cao muốn chỉ trích sâu sắc xã hội áp bức, thiếu nhân đạo làm hại sự sống, phá hoại tâm hồn con người, đồng thời bày tỏ mong muốn một cuộc sống lớn lao, ý nghĩa, xứng đáng với con người. Về người nông dân nghèo, Nam Cao đã vẽ lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với cảnh nghèo đói, xơ xác và thậm chí bị đẩy vào con đường hủy hoại, tội lỗi. Nam Cao không bôi nhọ người nông dân, ngược lại, ông đi sâu vào tâm hồn nhân vật để khẳng định nhân phẩm và bản chất thiện lành ngay cả khi họ bị áp bức, mất cả cái hình và cái tính của mình. Đồng thời, ông cũng lên án mạnh mẽ cái xã hội tàn bạo trước 1945. Sau Cách mạng, Nam Cao là một trong những người viết xuất sắc trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp (1945 - 1954) với những tác phẩm hỗ trợ cho cuộc chiến.
Tác phẩm của Nam Cao bao gồm nhiều thể loại khác nhau. Trong truyện ngắn có Chí Phèo (1941), Giăng sáng (1942), Đời thừa (1943), Một đám cưới (1944), Đôi mắt (1948)...; tiểu thuyết: Sống mòn (1944)...; và các thể loại khác như Nhật kí ở rừng (1948), Chuyện biên giới (1951)...
Trong số những tác phẩm nổi bật của Nam Cao, không thể không nhắc đến truyện ngắn Chí Phèo. “Chí Phèo” được xem là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà văn Nam Cao. Ban đầu, truyện được đặt tên là Cái lò gạch cũ. Tuy nhiên, khi tái bản lần đầu, nhà xuất bản đã quyết định đổi tên thành Đôi lứa xứng đôi (NXB Đời mới, Hà Nội, 1941). Sau đó, vào năm 1946, khi được tái bản trong tập Luống cày, Nam Cao đã quyết định đổi tên thành Chí Phèo. Chí Phèo được xem là một trong những kiệt tác văn xuôi của Việt Nam hiện đại, với những giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Câu chuyện kể về cuộc đời của Chí Phèo - một đứa trẻ mồ côi bị bỏ lại trong một cái lò gạch bỏ hoang. Sau này, Chí được dân làng truyền nhau nuôi lớn. Khi đủ tuổi, Chí trở thành người làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Chỉ vì một chuyện ghen tuông không đáng có, Bá Kiến đã đẩy Chí vào tù. Khi ra tù, Chí Phèo đã hoàn toàn thay đổi cả về hình dáng lẫn tính cách. Hắn trở thành tay sai đi thu nợ cho Bá Kiến, thường xuyên uống rượu và kiếm cách đòi nợ. Cả làng Vũ Đại đều sợ Chí. Rồi một ngày, Chí Phèo gặp Thị Nở - một phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn. Hắn ôm Thị Nở và qua đêm cùng nhau. Sáng hôm sau, Chí Phèo bị cảm, Thị Nở nấu cho hắn bát cháo hành để giải rượu. Chí bất ngờ tỉnh táo, khao khát trở thành người lương thiện. Nhưng lời nói của Thị Nở khiến Chí đau đớn và tuyệt vọng. Hắn uống rượu và dùng dao định tấn công nhà Thị và bà cô. Nhưng cuối cùng, Chí lại đến nhà Bá Kiến và giết Bá Kiến trước khi tự tử. Chí Phèo là một biểu tượng, đại diện cho một phần trong số những người lương thiện bị đẩy vào con đường tội lỗi và tha hóa. Với nhân vật này, nhà văn đã chỉ trích thẳng thắn cái xã hội tàn bạo đã tàn phá cả thân thể lẫn tinh thần của người nông dân. Đồng thời, truyện ngắn “Chí Phèo” đã trở thành một kiệt tác của Nam Cao.
Dễ dàng nhận thấy rằng, Nam Cao là một nhà văn đã đóng góp rất nhiều cho văn học Việt Nam hiện đại. Các tác phẩm của ông mang lại nhiều bài học quý giá cho người đọc.
Thuyết minh về nhà văn Nam Cao - Mẫu 7
Nam Cao (1915 - 1951) là một trong những nhà văn tiêu biểu của trào lưu văn học hiện thực phê phán trong giai đoạn phát triển cuối cùng (1940 - 1945), và là một trong những cây bút đặc trưng của văn xuôi Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
Tên thật của Nam Cao là Trần Hữu Tri, quê gốc ở làng Đại Hoàng, phủ Lý Nhân (nay thuộc xã Hoà Hậu, huyện Lý Nhân), tỉnh Hà Nam. Ông được coi là một nhà văn hiện thực xuất sắc trước Cách mạng tháng 8, với những tác phẩm viết chân thực về người nông dân nghèo bị áp bức và người trí thức nghèo sống mòn mỏi, bế tắc trong xã hội cũ. Sau Cách mạng, Nam Cao tiếp tục tận tụy sáng tác phục vụ cho cuộc kháng chiến. Ông đã hy sinh trên đường vào vùng sau lưng địch, để lại một tấm gương cao đẹp của một nhà văn - chiến sĩ.
Tư tưởng nghệ thuật của Nam Cao là: “Nghệ thuật vị nhân sinh” (nghệ thuật phải tập trung vào con người và mục tiêu tốt đẹp của con người); ông chỉ trích quan điểm “nghệ thuật vị nghệ thuật”. Nhà văn đã có nhiều đóng góp quan trọng vào việc hoàn thiện truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỷ XX. Ông luôn suy nghĩ và ý thức rõ về quan điểm nghệ thuật của mình.
Về phong cách nghệ thuật, Nam Cao chú trọng vào tư duy con người, đặc biệt quan tâm đến tâm lý bên trong của con người, xem đó là nguyên nhân của các hoạt động bên ngoài - điều này làm nổi bật phong cách riêng biệt của Nam Cao. Ông quan tâm đến tâm trí của con người, luôn muốn khám phá “con người trong con người”. Tâm lý nhân vật trở thành trung tâm của sự chú ý, là đối tượng trực tiếp của bút pháp của Nam Cao. Ông thường viết về những chi tiết nhỏ, nhưng từ những điều này, tác phẩm của Nam Cao làm nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa triết học sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. Giọng điệu độc đáo, thường mang sắc thái bi thương, chát chua. Phong cách nghệ thuật triết học sắc lạnh của ông.
Sự sáng tạo của Nam Cao được chia thành hai giai đoạn: trước và sau Cách mạng. Một số tác phẩm trước cách mạng như Chí Phèo, Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn. Một số tác phẩm sau Cách mạng như truyện ngắn Đôi mắt, tập nhật kí Ở rừng…
Trong số đó, truyện ngắn Lão Hạc là một tác phẩm nổi bật. Đây là một trong những truyện ngắn về người nông dân của Nam Cao, được đăng lần đầu tiên vào năm 1943. Tác phẩm được đánh giá là một trong những tác phẩm tiêu biểu của văn học hiện thực, phản ánh một phần của hiện thực xã hội Việt Nam trong giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám. Câu chuyện kể về lão Hạc, có một người con trai, một mảnh vườn và một con chó vàng. Con trai của lão làm phu đồn điền cao su, chỉ còn “cậu Vàng”. Muốn để lại mảnh vườn cho con, lão phải bán con chó mặc dù rất đau lòng. Lão dùng tiền dành dụm để gửi ông giáo chăm sóc mảnh vườn. Cuộc sống mỗi ngày càng khó khăn, lão kiếm gì ăn nấy và bị cảm một cơn. Lão từ chối tất cả sự giúp đỡ từ ông giáo. Một hôm, lão xin Binh Tư giúp giết con chó hay đến vườn, làm thịt và uống rượu cùng. Ông giáo cảm thấy buồn khi nghe Binh Tư kể lại câu chuyện đó. Lão đột ngột qua đời - một cái chết đầy đau lòng. Cả làng không hiểu tại sao lão lại chết, ngoại trừ Binh Tư và ông giáo. Cái chết của lão đầy đau đớn và thương tâm, gây nhiều xúc động cho độc giả. Truyện được kể qua lời của nhân vật tôi - ông giáo, và dường như trong nhân vật này, ta có thể thấy giọng kể của tác giả. Nghệ thuật viết truyện của Nam Cao có những đặc điểm độc đáo, đa dạng.
Tác phẩm của Nam Cao vừa chân thực vừa mang ý nghĩa triết học sâu sắc. Bút pháp hiện thực, lạnh lùng nhưng đầy cảm xúc, đan xen với tình cảm trữ tình. Nhà văn có khả năng miêu tả tâm lý con người, đặc biệt là khi khám phá những biến cố tinh tế, phức tạp. Có thể nói, tác phẩm của Nam Cao đánh dấu một bước tiến mới trong văn xuôi tiếng Việt, đã tồn tại hơn nửa thế kỷ nhưng vẫn tiến triển với tốc độ nhanh chóng.
Có thể khẳng định rằng, nhà văn Nam Cao đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả yêu văn học hiện thực. Các tác phẩm của ông sẽ tiếp tục sống mãi với thời gian.
Thuyết minh về nhà văn Nam Cao - Mẫu 8
Nam Cao (1915-1951) là một nhà văn hiện thực lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn nhất thế kỷ 20 của Việt Nam. Ông có nhiều đóng góp quan trọng vào việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri [Có nguồn ghi là Trần Hữu Trí], sinh năm 1915, nhưng theo giấy khai sinh ghi thì là ngày 29 tháng 10 năm 1917. Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao.Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Thân phụ ông là ông Trần Hữu Huệ, làm nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Thân mẫu ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung. Nhưng vì thể chất yếu, chưa kịp thi Thành Chung, ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi cưới vợ năm 18 tuổi.
Nam Cao từng làm nhiều công việc khác nhau để kiếm sống và bắt đầu sự nghiệp văn chương với mục đích mưu sinh. Khi 18 tuổi, ông tới Sài Gòn làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn như Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi các tác phẩm này đăng trên Tiểu thuyết thứ bảy, báo Ích Hữu với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, những sáng tác đầu tiên của Nam Cao chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.
Sau khi tự học lại để thi lấy bằng ở Thành Chung, Nam Cao dạy học tại Trường tư thục Công Thành, Hà Nội. Ông viết và đăng truyện ngắn Cái chết của con Mực và thơ dưới các bút danh Xuân Du, Nguyệt trên báo Hà Nội tân văn. Tập truyện Đôi lứa xứng đôi của ông được đánh giá cao khi ấn hành.
Khi Phát xít Nhật xâm nhập Đông Dương, Nam Cao dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, Thái Bình, rồi trở về làng quê Đại Hoàng. Ông sáng tác nhiều tác phẩm như truyện ngắn Truyện người hàng xóm và tiểu thuyết Sống mòn.
Năm 1943, Nam Cao tham gia Hội Văn hóa cứu quốc và đóng góp truyện ngắn Mò sâm banh cho tạp chí Tiên Phong. Tham gia cướp chính quyền ở phủ Lý Nhân sau Cách mạng tháng Tám, rồi được bổ nhiệm làm Chủ tịch xã mới. Ông cũng viết truyện ngắn Nỗi truân chuyên của khách má hồng.
Năm 1946, Nam Cao hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc ở Hà Nội và sau đó sang miền Nam làm phóng viên. Tại Nam Bộ, ông viết và đăng truyện ngắn Nỗi truân chuyên của khách má hồng và in lại Chí Phèo. Trở về Bắc, Nam Cao làm việc tại Văn hóa Hà Nam và viết cho báo Giữ nước và Cờ chiến thắng. Ông tham gia vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1948.
Năm 1950, Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam và được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương Đảng. Ông tham gia Chiến dịch Biên giới và dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3 cùng Nguyễn Huy Tưởng.
Trên đường công tác, Nam Cao gặp phải tấn công từ quân Pháp và hy sinh vào ngày 28 tháng 11 năm 1951 (30 tháng Mười âm lịch) tại Hoàng Đan, Ninh Bình. Mặc dù mộ của ông đã mất nhưng tác động của ông đối với văn học Việt Nam vẫn lớn. Năm 1956, tiểu thuyết Sống mòn của ông được xuất bản lần đầu.
Vào đầu năm 1996, chương trình 'Tìm lại Nam Cao' được tổ chức để tìm lại mộ của ông. Nhờ sự hỗ trợ của nhiều đơn vị và 7 nhà ngoại cảm, mộ của Nam Cao đã được tìm thấy và đưa về quê hương của ông. Ông cũng được trao Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật năm 1996.
Trong suốt cuộc đời sáng tác, Nam Cao luôn suy nghĩ về mối liên hệ giữa cuộc sống và văn chương, và ông đã có ý thức rõ ràng về quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói, Nam Cao là biểu tượng của chủ nghĩa hiện thực trong Văn học Việt Nam từ 1930 đến 1945.
Ban đầu, Nam Cao bị ảnh hưởng bởi văn học lãng mạn nhưng sau này ông nhận ra rằng nó không phản ánh được cuộc sống của người lao động. Ông đã chuyển sang con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm Giăng sáng (1942) của ông đã phê phán văn chương lãng mạn. Nam Cao nhấn mạnh rằng văn chương phải thẳng thắn nói lên sự thật đắng cay và nỗi khổ của nhân dân.
Trong tiểu thuyết Đời thừa (1943), Nam Cao khẳng định tình yêu, nhân ái và công bằng. Ông tin rằng văn chương không cần phải tuân theo các khuôn mẫu mà phải sáng tạo ra cái mới. Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm và nhân cách, và phê phán sự cẩu thả trong văn chương.
Sau năm 1945, tham gia cuộc chiến chống Pháp, sẵn lòng hy sinh thứ nghệ thuật cao siêu vì lợi ích của dân tộc. Nhật ký Ở rừng (1948) là một tác phẩm có giá trị về văn xuôi trong giai đoạn đầu của cuộc chiến chống Pháp, thể hiện quan điểm 'sống trước khi viết' và sự góp sức vào công việc phi nghệ thuật nhằm tạo điều kiện cho một nghệ thuật cao cả hơn.
Tác phẩm Người Trí thức nghèo của Nam Cao mô tả sâu sắc nỗi đau tinh thần của người trí thức nghèo trong xã hội trước năm 1945, những người gánh chịu những cảnh 'khổ sở của học vấn', những nhà văn nghèo, nhân viên văn phòng nhỏ - những người có nhận thức sâu sắc về giá trị cuộc sống và nhân phẩm, có ước mơ, lòng nhiệt thành và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý; nhưng lại chịu gánh nặng của cuộc sống và hoàn cảnh xã hội khó khăn khiến họ 'chết mòn', sống như 'kẻ thừa hóa, vô ích'. Nam Cao phê phán sâu sắc xã hội khắc nghiệt, phi nhân đạo, làm suy sụp sự sống và tâm hồn con người, đồng thời thể hiện khát vọng về một cuộc sống lớn, ý nghĩa, xứng đáng với con người.
Tác phẩm về Người nông dân nghèo của Nam Cao tái hiện một cách chân thực cảnh vật của nông thôn Việt Nam trước năm 1945, với cảnh tượng nghèo đói, cơ cực, bần cùng trên con đường phá sản, đặc biệt là sự hiền lành và nhẫn nhục dẫn đến sự bất công, lăng nhục và tàn nhẫn. Nam Cao không chỉ tả lại hoàn cảnh khốn khó của người nông dân mà còn sâu sắc phê phán xã hội tàn ác, làm hủy hoại tâm hồn con người, đồng thời khẳng định nhân phẩm và tinh thần tốt lành của người nông dân dù gặp khó khăn. Ông chỉ trích mạnh mẽ xã hội tàn bạo trước năm 1945.
Sau Cách mạng tháng Tám, Nam Cao tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến và có sự thay đổi trong quan niệm về nghệ thuật, đồng thời mở ra hướng đi mới cho nhân vật. Các tác phẩm của Nam Cao trở thành tuyên ngôn nghệ thuật cho các nghệ sĩ đương thời. 'Trăng sáng' là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao, phản ánh niềm tin rằng nghệ thuật không nên là sự lừa dối mà là tiếng gọi của nỗi đau thực sự.
Nam Cao ca ngợi tinh thần con người, tập trung vào tâm trạng của họ, coi đó là nguyên nhân của hành vi bên ngoài. Ông quan tâm đến đời sống tinh thần của con người, luôn muốn khám phá 'con người trong con người'. Tâm lý của nhân vật là trung tâm của sự chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút của Nam Cao. Thông qua việc viết về những chi tiết nhỏ trong cuộc sống hàng ngày, tác phẩm của Nam Cao nổi bật lên với ý nghĩa sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ thuật. Phong cách của ông độc đáo, buồn thương và chua chát. Ông có phong cách nghệ thuật triết lý và lạnh lùng, được so sánh với nhà văn Trung Quốc Lỗ Tấn với phong cách Téc-mốt.
Quan điểm về nghệ thuật của ông là 'Nghệ thuật vị nhân sinh' (nghệ thuật phải tập trung vào con người và những giá trị tốt lành của con người); ông chỉ trích quan điểm 'nghệ thuật vì nghệ thuật' và đã có nhiều đóng góp quan trọng trong việc phát triển truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trong quá trình hiện đại hóa trong nửa đầu của thế kỷ XX.