Câu 2
Bài tập 2 (trang 91, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Viết một đoạn văn (khoảng từ 10 đến 15 câu) phân tích về bối cảnh và tình thế trong bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan.
Phương pháp giải:
Hãy đọc bài thơ cẩn thận và viết một đoạn văn phân tích theo yêu cầu.
Lời giải chi tiết:
Đọc bài thơ của Bà Huyện Thanh Quan, ta cảm nhận được một cảm xúc buồn thấu đạt, một tâm trạng lưu luyến thực sự lắng đọng trong sự cô đơn, sự trống trải. Trong số những bài thơ ấy, có một tác phẩm Chiều hôm nhớ nhà. Ở hai câu đầu tiên, thời gian là buổi chiều nhuộm màu hoàng hôn. Ánh sáng vẫn hiện hữu, nhưng chỉ còn là một ánh sáng phai nhạt của buổi tối sắp đến. Câu thơ giới thiệu thời gian mà người đọc như cảm nhận được không gian một vùng quê lớn mênh mông. Trước thiên nhiên ấy, giữa trời và đất, có một điều gì đó lan tỏa sự nhạy cảm của con người. Buổi chiều là lúc dễ gây ra nỗi buồn nhất và đó cũng là thời điểm thường thấy trong thơ của bà Huyện Thanh Quan. Con người giữa cuộc sống ồn ào vẫn có lúc quay trở lại với bình yên thiên nhiên, quay trở lại với lòng chân thành của mình. Âm thanh xa xôi vang lên như một lời nhắc nhở, nhưng vẫn có sự yên bình trong đó, báo hiệu cho mọi người: ngày đã sắp kết thúc. Tâm trạng của tác giả đã được ẩn chứa trong việc chọn lựa thời gian, không khí và âm thanh. Câu thơ với nhịp 2/5 tạo cảm giác hoạt động của con người dần suy giảm, dần tiến gần tới sự kết thúc. Sự đối xứng chính xác cùng với những từ Hán Việt đã giúp tạo ra vẻ trang nhã, cổ kính trong hai câu thơ mô tả này. Trước vẻ lớn lao của thiên nhiên, con người thật nhỏ bé, yếu đuối và có phần lạc lõng. Và con đường phía trước bà, hai câu thơ cuối đã vẽ ra một bức tranh vô tận. Chim đã mỏi mệt mà vẫn chưa đến nơi, người đi đã mệt mỏi mà vẫn chưa đến đích. Con đường đi hay con đường cuộc đời đang được bày ra? Sự đối xứng của từng cặp hình ảnh về mây dập dìu, gió thổi - sương bay, chim mỏi - người đi đã mệt mỏi làm nổi bật hơn tâm trạng mệt mỏi, chán chường của nhà thơ. Tâm trạng ấy dẫn đến hai câu thơ kết thúc. Không ai để tâm sự, trời đất vô hạn, trống rỗng, làm tác giả quay trở lại với nội tâm, với nỗi buồn sẵn có của mình. Câu thơ cuối cùng, như một lời tâm sự, như một câu hỏi. Chiều hôm nhớ nhà của Bà Huyện Thanh Quan mãi mãi mang lại cho chúng ta những cảm xúc chân thành, sâu sắc trước nỗi buồn thanh cao, đưa đến những suy tư sâu xa hơn về con người và xã hội. Một bài thơ đóng lại nhưng vẫn để lại một dư âm trong lòng người đọc.
Câu 3
Bài tập 3 (trang 92, VTH Ngữ văn 8, tập 1)
Chuẩn bị nội dung để thảo luận về đề tài: Giữ gìn tiếng nói của cha ông, có phải cũng là một cách thể hiện lòng yêu nước không?
Phương pháp giải:
a. Chuẩn bị nội dung để thảo luận về đề tài trên.
b. Luyện thảo luận trên cơ sở các nội dung đã chuẩn bị.
Lời giải chi tiết:
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Thủ tướng Phạm Văn Đồng luôn chú trọng việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt và giáo dục nhân dân phải làm cho tiếng nói, chữ viết ngày càng thêm đẹp, thêm phong phú, hiện đại. Thế nhưng, hiện nay, trong xu thế hội nhập quốc tế, bên cạnh tiếp thu và Việt hóa được nhiều cái hay, cái đẹp của tiếng nói, chữ viết nước ngoài, thì sự trong sáng của tiếng Việt đang bị ảnh hưởng tiêu cực.
Đáng quan tâm nhất là sự lai căng tiếng nói, chữ viết của nước ngoài ngày một tăng. Dường như ngày càng có nhiều người, nhất là lớp trẻ, khi nói và viết tiếng Việt thường chen tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh. Tất nhiên, cũng phải thừa nhận rằng trong sự phát triển mau lẹ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là tin học và công nghệ thông tin, nhiều thuật ngữ mới ra đời mà chưa có trong tiếng Việt, nên phải dùng những thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài khi nói và viết tiếng Việt như Internet, trang web…, song đáng chê trách nhất vẫn là việc dùng chữ viết nước ngoài (chủ yếu là chữ Anh) thay cho chữ Việt vốn đã có sẵn, đủ nghĩa, dễ hiểu, trong sáng như show (biểu diễn), live-show (biểu diễn trực tiếp), nhạc classic (nhạc cổ điển), nhạc country (nhạc đồng quê), nhạc dance (nhạc nhảy), các fan (người hâm mộ)… một cách tự nhiên như thể đó là những từ tiếng Việt mà ai cũng hiểu.
Có ý kiến ngụy biện cho rằng hiện tượng này nên khuyến khích vì đấy là một cách học và thực hành tiếng Anh, một công cụ không thể thiếu để hội nhập quốc tế. Nhưng thực ra, muốn thực hành ngoại ngữ, chúng ta hoàn toàn có thể nói, viết hẳn bằng tiếng nước ngoài mà mình học ở các lớp học ngoại ngữ, các lớp đại học dạy bằng tiếng nước ngoài, hoặc tạo cơ hội tiếp xúc với người nước ngoài ở Việt Nam… Còn khi nói và viết tiếng Việt thì tránh dùng tiếng lai, trừ trường hợp bất đắc dĩ. Các cụ xưa gọi người sính dùng chữ gốc Hán là người “hay chữ lỏng” và có câu nói “dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng”.
Hồi nước ta còn thuộc Pháp, thói quen dùng chen tiếng Pháp cũng khá phổ biến và được gọi là nói “tiếng lai”. Trước Cách mạng tháng Tám 1945, phong trào cứu quốc, nâng cao tinh thần dân tộc thôi thúc sinh viên, học sinh từ bỏ cách nói chen tiếng Pháp. Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng trước đây thường tự mình nêu gương sáng và thường nhắc nhở mọi người tránh bệnh nói chữ, sính dùng từ gốc Hán khi có thể diễn đạt bằng tiếng Việt. Ví dụ như vì sao báo chí, hay thậm chí cả trong văn bản chính thức của nhà nước, thường dùng cụm từ “người tham gia giao thông” thay cho “người đi đường”?
Thực tế, người dân không bao giờ sử dụng từ “tham gia giao thông”. Người ta thường dặn dò nhau “đi đường phải cẩn thận” chứ chẳng ai nói “tham gia giao thông phải cẩn thận” bao giờ! Để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt theo tấm gương Bác Hồ, Nhà nước nên có quy định chặt chẽ và Viện Ngôn ngữ học phải có trách nhiệm đề xuất, xây dựng quy định chuẩn về việc dùng từ tiếng nước ngoài trong các văn bản, nhất là văn bản chính thức của Nhà nước. Các trường học cũng phải chú trọng, đẩy mạnh giáo dục học sinh giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Loại trừ sự lố bịch trong việc dùng tiếng lai cũng là một khía cạnh thể hiện niềm tự hào và tôn trọng ý thức dân tộc trong ngôn ngữ, góp phần giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt.