Nguyễn Công Trứ (1778-1858) là một nhà thơ vĩ đại của dân tộc, với danh tiếng lưu danh trong lịch sử văn học. Ông sống một cuộc đời rộng lớn, từ vai trò của một nhà quan lại đến một chiến binh, từ một nghệ sĩ đến một thực dân, với những trải nghiệm về danh dự và đau khổ, nhưng luôn giữ vững tinh thần anh hùng, tình yêu quê hương, và lòng hiếu khách:
Một danh vọng vang dội khắp nơi,
Cần phải để lại dấu ấn trên núi sông.
Sự sáng tạo văn chương của Nguyễn Công Trứ rất phong phú, thể hiện một cá nhân có cá tính độc đáo qua bài thơ Nôm Hàn nho và hơn 60 bài thơ hát nói đầy tài hoa. Bài ca ngất ngưởng là một trong những tác phẩm kiệt xuất trong văn học dân tộc. Bài thơ này gồm hai khổ đôi, tổng cộng 19 câu thơ với vần điệu phong phú, nhạc điệu trầm bổng, lúc dịu dàng, lúc hào hùng, khiến việc đọc trở nên rất thú vị. Hát nói là một dạng thơ dân gian, có cấu trúc chặt chẽ, sự kết hợp hài hòa giữa văn chương và âm nhạc rất hấp dẫn.
Nguyễn Công Trứ được phong tước vào năm 1848, sau hơn 30 năm phục vụ triều Nguyễn. Bài thơ Bài ca ngất ngưởng được ông sáng tác sau khi rời bỏ cuộc sống quan lại để về quê. Bài thơ như một lời kể về cuộc đời, thể hiện sự tự hào về tài năng và danh vọng của mình, thể hiện một cá tính, một lối sống phóng khoáng, tài tử của ông.
Ngất ngưởng có nghĩa là không ổn định, dễ bị lật, dễ gặp khó khăn (Theo từ điển Việt). Trong bài thơ này, nếu hiểu ngất ngưởng là một cá nhân khác biệt, một phong cách sống độc lập và không quan tâm đến ý kiến của người khác. Và Nguyễn Công Trứ đã biến điều đó thành một bài thơ ca, một tâm hồn cất cao với niềm tự hào và sự say mê hiếm thấy.
Khổ đầu cao trên là một lời tuyên bố, một phát biểu của một người nam tính, một người đàn ông. Rất trang trọng và hào hùng: Mọi việc trong vũ trụ đều thuộc về ta - một phát biểu phủ nhận để khẳng định tâm thế của một quan tôn đích thực. Điều này không chỉ xảy ra một lần? Ông viết: Mọi việc trong vũ trụ đều thuộc về ta (Nợ tang bồng); Mọi việc trong vũ trụ đều là phận sự của ta (Gánh trung hiếu). Có tâm thế đó vì ông có tài bộ lớn lao. Hi Văn là biệt danh của Nguyễn Công Trứ. Tài bộ chỉ tài năng vĩ đại, nhiều tài năng. Từ 'lồng' trong câu thơ có nhiều cách hiểu khác nhau. Vào lồng có thể hiểu là vào khuôn phép của vua chúa nhưng vẫn là hạn chế, hẹp hòi so với tài bộ đỉnh cao của ông. Có người giải thích: lồng là trời đất, vũ trụ. Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: Đã mang tiếng trong trời đất, hoặc Không có danh gì đứng giữa trần gian (trần gian: cõi đời, thế gian). Cách hiểu thứ hai có vẻ hợp lý hơn, vì có lồng vũ trụ thì mới có ý chí tranh đấu như ông đã nói.
Sau khi đã thể hiện danh tiếng, nhà thơ tự khẳng định tâm thế, tài năng của mình, và tính cách nam tính của mình có uy tín như vũ trụ.
Nguyễn Công Trứ là một nhân vật có uy tín và danh tiếng thực sự. Trong học vấn và thi cử, ông luôn dám thách đấu với mọi người: Nghĩa vụ trả nợ cầm thư. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ kỳ thi Thảo khoa tại trường Nghệ An. Trong thời gian làm quan võ, ông giữ vị trí Tham tán; trong lúc làm quan văn, ông là Tổng đốc Đông (tại Hải Dương và Quảng Yên). Với danh tiếng vang dội, ông trở thành một anh hùng thực sự, được biết đến như thế (Chí anh hùng). Ông đã đạt đến đỉnh cao của danh tiếng nhờ vào tài năng văn võ hoàn hảo, nhờ vào sự thông thạo trong chiến thuật, và chính vào thời điểm đó ông mới thực sự trở thành một con người vượt thời đại và vượt xa mọi người. Với cấu trúc thơ đặc biệt (3-3-1-3-3-2), ba lần lặp lại từ 'khi' đã tạo ra một giai điệu hùng hồn, thể hiện một tinh thần phi thường, một ý chí mạnh mẽ:
Khi là Thủ khoa/ khi giữ vị trí Tham tán/ khi là Tổng đốc Đông
Thành thạo trong chiến thuật/ đã trở thành một con người/ vượt trội.
Bốn câu tiếp theo (ở giữa bài), ý thơ được mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định bản thân là một con người, một kẻ anh hùng có tài năng vượt trội. Trong thời kỳ loạn lạc, ông đã tham gia vào trận mạc, giữ trách nhiệm trước ba quân: Đại tướng kiêm Bình Tây cờ. Trong thời gian hòa bình, ông đã hỗ trợ đất nước và vua, làm Phủ doãn Thừa Thiên. Đó là vào năm 1847, Nguyễn Công Trứ đã đạt đến đỉnh cao của danh tiếng. Ông đã nói: Khi làm Đại tướng, tôi không tự hào về quyền lợi, khi làm lính thú, tôi cũng không xấu hổ. Sau 30 năm phục vụ, Nguyễn Công Trứ đã trở thành một nhà quan chức ở quê nhà, năm ấy, ông đã tròn 70 tuổi (1848):
Thành công mạnh mẽ, không gì có thể cản trở.
Trong cuộc sống hàng ngày, cụ Thượng Trứ đã hành động một cách ngược lại với thường lệ, có vẻ như muốn chế nhạo đời với tất cả sự kiêu căng. Người quan lớn ngày xưa, từng điều kỳ ngựa chạy xa, bây giờ chỉ còn cưỡi trên lưng bò vàng và để bò mang trang sức giả ngựa. Cả người lẫn bò đều tỏ ra kiêu căng. Điều này như một thách thức với thế gian. Đến tận bây giờ, dân gian vẫn cười và kể lại bài thơ, nhớ đến câu chuyện cũ của ông Hi Văn:
Xuống bò, lên xe, tướng cũng chẳng bận tâm,
Bỏ lại hương vị quyền lợi, chốn vinh quy an nhàn,
Lang thang trong vườn nhà trên chiếc xe bò cũ,
Đã sẵn lòng che dấu khỏi ánh mắt của thế gian.
Tám câu tiếp theo trong hai khổ đôi nói về cuộc sống dịu dàng và thanh bình của ông. Người từng là vị anh hùng, một danh tướng mạnh mẽ - người có tay cầm kiếm vững vàng trên chiến trường - nhưng giờ đây sống cuộc sống yên bình, khiêm nhường như một người tu tâm. Ông thường đi dạo quanh chùa, thăm thú những danh lam thắng cảnh, và luôn có bên cạnh một đôi người phụ nữ tài sắc vẹn toàn..
Núi kia phủ mây trắng dày đặc,
Người từng cầm kiếm giờ trở nên nhân từ,
Đôi dì với gót tiên đẹp mê hồn
Thậm chí các vị thần cũng phải ngưỡng mộ ông...
Ông đã sống hết mình và vui đùa cũng vậy. Dường như cả thế gian đều cười nhạo ông với cả tinh thần 'ngất ngưỡng' của ông. Đoạn thơ bốn dòng của ông là một điều hiếm thấy. Câu thơ vui vẻ, hóm hỉnh. Liệu có phải thế gian đang cười, hay chính ông Hi Văn đang cười với bản thân mình? Bây giờ đã thoát khỏi vòng vây của danh lợi, thì có được hay mất cũng là điều tự nhiên, giống như câu chuyện về Thất mã tái sinh của ông, không có gì phải quan tâm cả? Nhận xét tích cực hay tiêu cực của thế gian, ông xem như là không quan trọng, giống như là cơn gió đông (xuân) vùi qua. Chỉ khi có lòng kiên định, tự tin vào tài năng và phẩm chất của mình, thì mới dám có thái độ từ chối như vậy, dám sống một cách tự do hơn mọi quy định. Chỉ khi hiểu rõ rằng Nguyễn Công Trứ là một người được đào tạo trong nhà trường của Khổng Tử và Trình Tử, một quan nhà Nguyễn, thì mới có thể nhận ra phần nào bản tính độc đáo, nhân cách đặc biệt, một cá nhân vô cùng phóng túng và tài năng hiếm có của ông. Không mặn mà với sự đạt được hay mất mát. Bỏ qua mọi lời khen chê của thế gian, ông đã sống một cách thanh thản, rất thoải mái, hạnh phúc. Dù sống trong tình trạng 'ngất ngưỡng' nhưng vẫn giữ cho mình sự trong sạch, cao quý. Đó là hai dòng thơ tuyệt vời trong Bài ca ngất ngưỡng:
Khi ta/ say say/ khi vui/ khi chơi
Không quan tâm/ không ưu phiền/ không bị ràng buộc.
Sự xen kẽ giữa nhịp điệu (3-3- 1-3-3-2), kỹ thuật hòa âm (bằng, trắc), cách miêu tả phong phú (khi ... không...) đã tạo ra một cảm giác giàu nhạc điệu trong những dòng thơ này, thể hiện một tinh thần thích thú, ham sống, cao quý và không bị gò bó bởi những vấn đề thường trần. Chỉ khi đọc to và hát lên, nghe tiếng nhạc, nhịp điệu, tiếng trống, ta mới cảm nhận được vẻ đẹp của thơ ca, của âm nhạc hòa quyện trong những dòng thơ tuyệt vời như vậy! 'Ngất ngưỡng' và tài hoa, tài trí.
Cả đoạn thơ chỉ gồm ba câu. Câu cuối còn được gọi là 'câu keo', chỉ với sáu từ. Chỉ khi ghi chép đúng như trong Tuyển tập thơ ca trù - NXB Văn học 1987, mới đúng về kỹ thuật thơ:
Trái phố, nhạc cũng đi qua Hàn, Phú.
Nghĩa vương, tôi gắn kết tất cả từ đầu,
Đời ai ngày nào cũng hào hứng như ông!
Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một vị thần thủy chung, trọn vẹn tinh thần phục vụ vua chúa - ông đã viết trong bài Nợ tang bồng.
Chí tang bồng gặp gỡ với sông núi,
Con đường trung hiếu, nặng gánh trách nhiệm quân thân.
Tài năng và danh vọng mà Nguyễn Công Trứ để lại cho đất nước và nhân dân không kém cạnh ai trong lịch sử, như Trái Tuân, Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật - những nhân vật xuất sắc của thời Hán, thời Tống ở Trung Quốc. So sánh sự vĩ đại, nổi bật, từ bên trong đến bên ngoài, từ phương Bắc đến phương Nam, tác giả kết thúc bài hát với một tiếng khen ngợi mạnh mẽ: 'Đời ai có thể hào hứng như ông!' Bản tính phi thường của nhà thơ được vạch ra một cách rõ ràng.
Tóm lại, để trở thành một người ngất ngưởng như Nguyễn Công Trứ, cần phải có tài năng và danh vọng thực sự, cần phải trung thành với nghĩa vụ của mình, mới có thể đạt được. Cách sống ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ phản ánh sự tài hoa, tài năng, không quan trọng tới sự danh tiếng, không bị ràng buộc bởi các quy tắc xã hội, nhưng cũng không bỏ rơi trách nhiệm. Chỉ khi sống một cuộc đời như thế, người mới thật sự tao nhã và sang trọng.
Tên và nội dung của bài thơ 'Bài ca ngất ngưởng' của Nguyễn Công Trứ rất độc đáo. Cách biểu hiện bản thân của nhà thơ làm nổi bật sự độc đáo này. Một thế kỷ sau, thi sĩ Tản Đà cũng viết nhiều bài thơ hát nói, thể hiện sự kiêu căng. Một số người hào hứng mà vô tâm, một số người hạnh phúc mà không biết trân trọng cuộc sống.
Thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật. Những câu thơ chữ Hán mang lại sự uyên bác, trang trọng. Sự kết hợp hoàn hảo giữa lời văn và nhạc điệu tạo nên sức hút đặc biệt, lôi cuốn.
Trong thơ cổ điển của Việt Nam, các nhà thơ như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà, đã để lại một số tác phẩm hát nói đỉnh cao. Nguyễn Công Trứ đã tạo ra một dòng thơ mạnh mẽ, hùng vĩ, phản ánh tài hoa và chí anh hùng trong những tác phẩm như 'Chí anh hùng', 'Nợ tang bồng', 'Chí nam nhi'. Đó là phong cách nghệ thuật, là tinh thần, là bản sắc của thơ hát nói theo Nguyễn Công Trứ. 'Bài ca ngất ngưởng' thực sự là một bài thơ sâu sắc từ tâm hồn của ông Hi Văn, mang lại nhiều cảm xúc thú vị cho người đọc.