Giang Văn Minh 江文明 | |
---|---|
Công bộ Tả thị lang | |
Tên chữ | Quốc Hoa |
Tên hiệu | Văn Chung |
Thụy hiệu | Văn Trung |
Thông tin cá nhân | |
Sinh | |
Ngày sinh | 1573 |
Nơi sinh | làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Thọ, phủ Quảng Oai, tỉnh Sơn Tây (nay là xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội). |
Mất | |
Thụy hiệu | Văn Trung |
Ngày mất | 1638 (64–65 tuổi) |
Nơi mất | Bắc Kinh |
Nguyên nhân mất | khi đi sứ sang nhà Minh, vì đối đáp cứng cỏi nên bị vua Minh Tư Tông hành hình |
An nghỉ | xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Thành phố Hà Nội |
Giới tính | nam |
Học vấn | Thám hoa khoa thi năm 1628 |
Chức quan | Công bộ Tả thị lang (truy tặng sau khi mất) |
Tước vị | Vinh Quận công |
Dân tộc | Việt |
Quốc gia | Đại Việt |
Thời kỳ | Nhà Lê Trung hưng |
[sửa trên Wikidata] |
Giang Văn Minh (1573 - 1638), tên chữ Hán là 江文明, còn được gọi là Quốc Hoa và có hiệu Văn Chung, là một nhân vật nổi bật trong triều đại nhà Lê ở Việt Nam. Ông được nhớ đến với danh hiệu 'Người Bảo Vệ Danh Dự Vương Triều' (Không để nhục mệnh vua) vì đã dũng cảm đối mặt với triều đình Trung Quốc và bị hành hình dưới triều Minh Tư Tông vào năm 1638, thọ 65 tuổi.
Cuộc sống và cống hiến
Ông sinh năm 1573 tại làng Kẻ Mía, xã Mông Phụ, tổng Cam Giá, huyện Phúc Lộc, phủ Quảng Oai, trấn Sơn Tây, hiện nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Ông đã xuất sắc đạt đầu kỳ thi Hội và tiếp tục thi Đình, đạt Đình nguyên Thám hoa trong khoa Mậu Thìn, năm Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) dưới triều Lê Thần Tông. Đây là kỳ thi không có ai đỗ Trạng nguyên hay Bảng nhãn, vì vậy ông là người đỗ cao nhất trong cả kỳ thi. Sau khi thành công, ông được bổ nhiệm vào các chức vụ quan trọng như Binh khoa đô cấp sự trung (1630) và Thái bộc tự khanh (1631).
Ngày 30 tháng 12 năm Dương Hòa thứ 3 (1637), ông cùng Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được vua cử làm chánh sứ, đồng hành với 4 phó sứ: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê, dẫn đầu hai phái đoàn sứ bộ sang triều Minh để cầu phong và nộp cống. Sau khi qua đời, ông được truy tặng chức Công bộ Tả thị lang và tước Vinh Quận công.
Câu chuyện huyền thoại
Khi Giang Văn Minh thực hiện sứ mệnh, mặc dù nhà Mạc đã rút lui về Cao Bằng, nhưng nhà Minh vẫn duy trì chính sách ngoại giao hai mặt (với cả nhà Hậu Lê và nhà Mạc) nhằm kéo dài cuộc chiến tranh Lê-Mạc. Đoàn sứ bộ của Giang Văn Minh đã đến Yên Kinh (hiện nay là Bắc Kinh) vào năm 1638.
Khi tiếp kiến, Minh Tư Tông Chu Do Kiểm (hoàng đế Sùng Trinh) viện lý do 'Theo lệ cũ, không có quy định cụ thể cho việc sắc phong, nên chỉ ban sắc thư để tưởng lệ trong khi chờ tra cứu' nhằm cản trở việc công nhận chính thức nhà Hậu Lê và hủy bỏ công nhận ngoại giao với nhà Mạc.
Ngoài ra, Chu Do Kiểm còn kiêu ngạo đưa ra một câu đối cho sứ bộ như sau:
- 'Đồng trụ chí kim đài dĩ lục'
- ('銅柱至今苔已綠')
Tức là:
- 'Cột đồng đến nay vẫn phủ rêu.' hoặc 'Cột đồng đến giờ rêu phủ dày'
Câu đối này ám chỉ việc cột đồng của Mã Viện vẫn tồn tại lâu dài và đã mọc rêu, liên hệ đến việc Mã Viện đã dẹp yên cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, ngụ ý rằng nhà Minh vẫn đang giữ quyền kiểm soát Đại Việt.
Trước sự kiêu ngạo đó, Giang Văn Minh đã dũng cảm đáp lại bằng câu:
- 'Đằng Giang tự cổ huyết do hồng'
- ('藤江自古血猶紅')
Tức là:
- Bạch Đằng xưa còn lưu vết máu đỏ
Câu đối này không chỉ nhấn mạnh việc người Việt đã ba lần đập tan quân xâm lược phương Bắc trên Sông Bạch Đằng, mà còn ám chỉ rằng những cuộc xâm lược Đại Việt của triều đình phương Bắc luôn thất bại. Hơn nữa, cột đồng của Mã Viện là một thứ mơ hồ, chưa chắc đã có thật, trong khi Sông Bạch Đằng hiện rõ như một vết nhơ trong lịch sử xâm lược của triều đình phương Bắc.
Vào thời điểm đó, câu đối này được coi là một cú tát vào mặt hoàng đế Minh Tư Tông trước mặt đông đảo quan chức Minh và sứ thần các nước. Hoàng đế Minh Tư Tông nổi giận đến mức quên cả thể diện thiên triều, vi phạm luật lệ ngoại giao, đã trả thù bằng cách bịt miệng và mắt ông, rồi cho mổ bụng để xem 'sứ thần An Nam gan dạ đến đâu'. Sự việc xảy ra vào ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Tuy nhiên, Minh Tư Tông vẫn giữ sự tôn trọng với ông và lo sợ Đại Việt sẽ trả thù khi tình hình nhà Minh ngày càng khó khăn do các cuộc nổi dậy trong nước và sự xâm lược của nhà Hậu Kim (tiền thân của nhà Mãn Thanh), nên Minh Tư Tông không muốn thêm một đối thủ nữa và đã cho ướp xác ông bằng thủy ngân rồi gửi thi hài ông về nước.
Khi thi hài của ông về đến Kinh thành Thăng Long, vua Lê Thần Tông và chúa Trịnh Tráng đã đến viếng và truy tặng chức Công bộ Tả thị lang cùng tước Vinh Quận công, đồng thời ban tặng câu 'Sứ không làm nhục mệnh vua, xứng đáng là anh hùng vạn cổ' (chữ Hán: 使不辱君命,可謂千古英雄), nghĩa là Sứ thần không làm nhục mệnh vua, thật sự là anh hùng thiên cổ.
Trong lời điếu của vua Lê có đoạn:
- “Người sống như ông, cuộc đời thật đáng sống.”
- “Người chết như ông, cái chết cũng đáng tựa cuộc sống.”
Tức là: Ai cũng sống, sống như ông, thật đáng quý. Ai cũng chết, chết như ông, cái chết cũng có giá trị như cuộc sống.
Sau khi thi hài được đưa về nước, Giang Văn Minh được an táng tại Đồng Dưa, thuộc Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội. Trên mảnh đất này có một quán nhỏ (hiện nay là một ngôi nhà) nơi thi hài ông đã được quàn, được gọi là quán quàn.
Vinh danh
Hiện nay, ngôi nhà thờ của ông tại làng Mông Phụ, xã Đường Lâm, thị xã Sơn Tây, Hà Nội đã được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa của quốc gia.
Nhiều khu vực ở Việt Nam đã đặt tên đường phố theo tên ông.
- Tại Thủ đô Hà Nội, có phố Giang Văn Minh thuộc quận Ba Đình, nối liền phố Giảng Võ với phố Đội Cấn và cắt ngang phố Kim Mã.
- Tại Thành phố Hồ Chí Minh, có đường Giang Văn Minh nằm ở phường An Phú, thành phố Thủ Đức.
- Tại Thành phố Bắc Ninh, có một con phố mang tên Giang Văn Minh nằm ở phường Võ Cường.
- Tại Thành phố Đà Nẵng, có con phố Giang Văn Minh tọa lạc ở quận Hải Châu.
Những tác phẩm
- Hoa Nghiêm tự bi: Trên bia đá tại chùa Hoa Nghiêm ở thôn Vô Song, xã Đông Hà, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình có ghi rằng văn bia được soạn năm Dương Hòa thứ 2 (1636) bởi Phúc Lộc hầu Giang Văn Minh, đỗ Thám hoa khoa Mậu Thìn (1628), giữ chức Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Thái bộc tự khanh.
- Viện Sử học (2007). Trần Thị Vinh (biên tập). Lịch sử Việt Nam, tập 4: Từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XVIII. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. ISBN 978-604-944-927-7.
- Trần Hồng Đức (2002). Nguyễn Khắc Oánh (biên tập). Các vị Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa (ấn bản 2). Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc. tr. 104–105. ISBN 978-604-89-2297-9.
- Sử quán triều Hậu Lê (1697). Ngô Sĩ Liên; Vũ Quỳnh; Phạm Công Trứ; Lê Hy; Nguyễn Quý Đức (biên tập). Đại Việt sử ký toàn thư. ISBN 9786046997566.
- Ngô Sĩ Liên (2017). Đại Việt sử ký toàn thư (PDF). Ngô Đức Thọ, Hoàng Văn Lâu dịch. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội. ISBN 9786046997566.