Khi xã hội quan tâm, tôn trọng văn hoá cơ bản, tập trung vào tri thức khoa học và đánh giá cao vai trò của giáo dục, thì sẽ nảy sinh nền “giáo dục vị nhân sinh”.
…tầm hiểu biết
Trong thời Trung cổ, giáo dục bị hạn chế, hạn chế sự tự do tư duy. Nhưng sau đó, phong trào Phục Hưng văn hoá vào thế kỉ 16 ở châu Âu đã nổi lên, phá vỡ những “bức tường” chặt chẽ của “đêm trường trung cổ” và đã giải phóng tinh thần con người.
Nền giáo dục “mới” lúc bấy giờ đã mở ra những cơ hội, để con người phát huy hết tiềm năng của mình; khoa học được tôn trọng, giáo dục tầm hiểu biết ra đời.
Một hệ thống giáo dục ưu tiên tự do học thuật, dựa trên nền tảng nhân bản, được ca tụng. Lúc đó, các trường học quan tâm đến cả ba phương diện: Trí tuệ, Đạo đức và Thể chất. Tuy nhiên, dần dần, Trí tuệ vươn lên hàng đầu, tập trung vào “nâng cao kiến thức”, để thi cử, đánh giá bằng cách định lượng với các điểm số.
Mặc dù giáo dục vẫn quan tâm đến việc phát triển đạo đức, tinh thần, thể chất, … nhưng phương pháp đánh giá vẫn dựa trên những gì có thể đo lường được, vì vậy chủ yếu là kiến thức khoa học.
Khi khoa học được tôn trọng, kết quả cũng dần được thể hiện qua những thành tựu nổi bật. Để theo đuổi những thành tựu khoa học, tầng lớp thượng lưu sẽ có lợi thế vượt trội.
Họ chiếm giữ tri thức cao quý mà không cần phải lo lắng về việc kiếm tiền; từ đó, những ý tưởng vượt ra khỏi không gian và thời gian được sinh ra, và những nhà khoa học vĩ đại xuất hiện. Có thể nói, hoạt động khoa học ở thời điểm đó không chỉ vì mục đích sinh sống, không chỉ vì lợi ích cá nhân…
Những người hoạt động trong lĩnh vực khoa học có sự sáng tạo tự do, không bị hạn chế suy nghĩ bởi những “rào cản” định kiến; họ chỉ dành sự đam mê, lòng ham muốn tìm hiểu về thế giới, vũ trụ…
Mỗi khi khoa học trở nên hướng nghiên cứu, giáo dục cũng theo hướng nghiên cứu, tất cả đều tôn trọng trí tuệ, dần dần coi thường các giá trị về tinh thần, đạo đức, sức khỏe… Điều đó được xem là làm sai lệch giá trị của con người, đã từng được nhắc nhở và đề xuất cải cách.
Đến nay, loài người đã bước vào gần 1/4 thế kỉ XXI, tuy vẫn giáo dục vẫn tập trung nhiều vào “truyền đạt kiến thức” để đạt kết quả thi cử, thành tích; lĩnh vực khoa học cũng mới chỉ tiếp cận với “sân chơi” quốc tế và phải đối mặt với thị trường “mua bán” công bố. Nhiều công bố chỉ vì thành tích, vì lợi ích và vì mưu sinh…
Có lẽ hiện tại, giáo dục và khoa học của chúng ta có thể cùng tồn tại trong thế giới hiện đại, nhưng không chắc chắn cùng thời đại, cần sự quan tâm từ những người có trách nhiệm, thay vì chỉ là sự phê phán không khoan nhượng!
…vị nhân sinh
Khi chỉ chỉ trích giáo dục vì chỉ tập trung vào việc “nâng cao kiến thức” để “đạt thành tích”; thiếu sự rèn luyện kỹ năng, yếu thể chất, còn thiếu sự phát triển tinh thần; tạo ra những người “lí thuyết suông”, xa lìa thực tế kiểu “gà công nghiệp” thì cũng là lúc mà người ta bắt đầu chuyển hướng, đề cao giáo dục “vị nhân sinh” thay cho “vị học thuật”.
Ở một góc nhìn, những nhà “cải cách” đề xuất giáo dục “vị nhân sinh” theo cách đặt lên hàng đầu việc trở thành “người tử tế” và “người làm việc” thay vì “nâng cao kiến thức”.
Và dĩ nhiên, mỗi khi đặt lên hàng đầu điều này thì cũng làm giảm giá trị của điều kia. Khi quan tâm đến việc trở thành “người tử tế” bằng cách tuân thủ quy tắc, đạo đức, phê phán sự tự do, sự “khác biệt”; đề cao việc “làm việc” để sống khỏe mạnh, để làm giàu… sẽ có xu hướng tạo ra những cá nhân sống vì bản thân hơn là vì cộng đồng…
Người học ngày càng tập trung vào việc nâng cao kỹ năng sống và kiếm tiền thay vì chỉ chú trọng vào việc rèn luyện tư duy và tích luỹ kiến thức như trước.
Sự quan tâm của người học ngày càng tăng lên đối với những ngành nghề có nhiều cơ hội việc làm và tiềm năng giàu có. Họ chọn ngành nghề dựa trên năng lực cá nhân, sở thích và đam mê.
Hệ thống giáo dục hiện nay thường tập trung vào việc áp đặt một khuôn mẫu nhất định và theo đuổi mục tiêu thực dụng, và điều này phản ánh lên xã hội xung quanh.
Trong quá khứ, dù khoa học ở châu Âu được coi là không mang lại lợi nhuận, nhưng những người làm khoa học không chú trọng vào việc kiếm tiền. Tính khách quan trong nghiên cứu được coi là rất quan trọng.
Thế giới ngày nay đang đối mặt với nhiều thách thức toàn cầu như biến đổi khí hậu, suy thoái đa dạng sinh học, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh và chiến tranh. Khoa học có vai trò quan trọng trong việc giải quyết những thách thức này.
Mặc dù có nhiều thách thức đe dọa sự tồn vong của loài người nhưng nhiều người vẫn ít quan tâm đến những vấn đề này. Sự quan tâm chủ yếu vẫn tập trung vào kinh tế và công nghệ.
Dù có sự phát triển của công nghệ số và cách mạng 4.0, cũng như sự dự báo về cách mạng 5.0, loài người vẫn gặp khó khăn trong việc đối phó với những biến đổi không lường trước của thiên nhiên. Điều này là quy luật, là bản chất mà tri thức nhân loại đã rút ra từ lâu.
Mặc dù khoa học hiện đại đã làm rõ nhiều điều có giá trị, nhưng tri thức của loài người không chỉ tồn tại trong những phát minh và công trình khoa học, mà còn trong những kiến thức dân gian được tích luỹ qua thời gian và đã trở thành một phần của văn hoá.
Khi xã hội coi trọng nền văn hoá, chú trọng vào tri thức khoa học và đặt giáo dục ở vị trí quan trọng, thì đó là nơi mà triết lý giáo dục vị nhân sinh được thể hiện rõ nhất.
Triết lý giáo dục vị nhân sinh nhấn mạnh vào việc phát triển trí tuệ và tinh thần của con người, giúp họ hiểu và thực hiện những giá trị sống đúng đắn, phục vụ cho cộng đồng và nhân loại.
Thời đại nào, xã hội nào mà văn hoá, khoa học và giáo dục được liên kết chặt chẽ và được coi trọng, thì đó mới là thời đại của văn minh và tiến bộ.
Mặc dù chúng ta có các dịp kỷ niệm như Ngày Khoa học và Công nghệ Việt Nam (18/5), Ngày Nhà giáo Việt Nam (20/11) để tôn vinh khoa học và giáo dục, nhưng cách mà chúng ta đối xử với hai lĩnh vực này ngày nay khó có thể coi là đầy đủ và đúng đắn.
Việc thúc đẩy văn hóa, khoa học và giáo dục ở Việt Nam hiện nay là một nhiệm vụ cấp bách và trọng trách này thuộc về tất cả mọi người, không chỉ của một số người cụ thể!