Giao phối trong họ hàng gần hay cận huyết thống, thường được gọi là giao phối gần hay cận giao, là quá trình giao phối giữa các sinh vật có quan hệ họ hàng gần gũi và giống nhau nhiều về kiểu gen. Thuật ngữ này cũng được áp dụng trong sinh sản của loài người, luôn đi kèm với các rối loạn di truyền và những hậu quả khác từ các mối quan hệ tình dục loạn luân, gây thoái hóa giống nòi.
Giao phối cận huyết dẫn đến tăng tỷ lệ thể đồng hợp tử, trong đó các gen lặn có hại có nhiều điều kiện để biểu hiện. Điều này thường dẫn đến giảm đa dạng sinh học của quần thể (gọi là thoái hóa giống), làm giảm khả năng tồn tại và thích nghi. Tránh bộc lộ các alen lặn có hại qua giao phối cận huyết, thông qua các cơ chế tránh giao phối cận huyết, là lý do cho việc chọn giao phối xa. Giao phối giữa các quần thể có kiểu gen khác nhau thường mang lại tác động tích cực lên quá trình thích nghi và tiến hóa của quần thể, nhưng đôi khi cũng gây ra những tác động tiêu cực, gọi là thoái hóa do giao phối xa.
Liên kết ngoài
- Dale Vogt, Helen A. Swartz và John Massey, 1993. Lưu trữ ngày 08-03-2012 tại Wayback Machine Giao phối cận huyết: Ý nghĩa, ứng dụng và tác động lên động vật nuôi. Đại học Missouri, Extension. Lưu trữ ngày 08-03-2012 tại Wayback Machine
- Hôn nhân cận huyết với bản đồ toàn cầu Lưu trữ ngày 02-03-2012 tại Wayback Machine
- Ernest Ingersoll (1920). “Giao phối chéo ở động vật và con người” . Bách khoa toàn thư Americana.
Di truyền học | |
---|---|
| |
Thành phần then chốt |
|
Chủ đề chính |
|
Khảo cổ học di truyền |
|
Chủ đề liên quan |
|
|