Gilgamesh 𒀭𒄑𒉋𒂵𒈨𒌋𒌋𒌋 | |
---|---|
Một bức phù điêu có thể thể hiện hình ảnh Gilgamesh như là Chúa tể muôn loài, với sư tử bên tay trái và rắn bên tay phải, được tìm thấy từ di tích cung điện Assyria cổ đại ở Dur-Sharrukin. Hiện đang được trưng bày ở Louvre | |
Tại vị | k. 2900-2700 TCN (Tiền triều đại) |
Thông tin chung | |
Sinh | {{{nơi sinh}}} |
Hậu duệ | Ur-Nungal |
Thân phụ | Lugalbanda |
Thân mẫu | Ninsun |
Một phần của loạt bài viết về |
Tôn giáo Lưỡng Hà cổ đại |
---|
|
Thực thể khởi thủy[hiện] |
Bảy vị thần cai trị[hiện] |
Chư vị đại thần[hiện] |
Chư vị hạ thần[hiện] |
Á thần và anh hùng[hiện] |
Linh dị thần quái[hiện] |
Truyền thuyết[hiện] |
Gilgamesh (tiếng Akkad: 𒀭𒄑𒂆𒈦, Gilgameš; tiếng Sumer nguyên bản: 𒀭𒉋𒂵𒈩, Bilgames) là một vị vua huyền thoại của thành phố Uruk trong nền văn minh Sumer cổ đại, và cũng là nhân vật chính của Sử thi Gilgamesh, một tác phẩm được viết bằng tiếng Akkad vào cuối thiên niên kỷ 2 trước Công nguyên. Ông có thể đã trị vì vào khoảng 2800 - 2500 TCN và đã được thần thánh hóa sau khi qua đời.
Gilgamesh trở thành một nhân vật nổi bật trong các truyền thuyết Sumer suốt Triều đại thứ ba của Ur (k. 2112 - k. 2004 TCN). Những câu chuyện về các kỳ tích thần thoại của ông được ghi lại trong năm bài thơ tiếng Sumer còn lưu truyền, trong đó sớm nhất có thể là bài thơ Gilgamesh, Enkidu và Thế giới cõi âm. Trong đó, Gilgamesh giúp nữ thần Inanna xua đuổi những sinh vật nhiễm bệnh khỏi cây huluppu của bà và được thưởng hai vật phẩm gọi là mikku và pikku, nhưng sau đó ông làm mất chúng. Enkidu xuống Cõi âm tìm kiếm chúng và trở về kể cho Gilgamesh về cảnh tăm tối ở đó. Bài thơ Gilgamesh và Aga kể về cuộc nổi dậy của Gilgamesh chống lại vua Aga của Kish. Một bài thơ Sumer khác mô tả chiến công của Gilgamesh trong việc đánh bại quái vật Huwawa và Thiên Ngưu, còn bài thơ thứ năm không còn nguyên vẹn, miêu tả cái chết và tang lễ của Gilgamesh.
Vào thời kỳ Babylon sau này, các câu chuyện về Gilgamesh được biên soạn và kết nối lại thành một bản sử thi hoàn chỉnh. Bản Sử thi Gilgamesh tiêu chuẩn bằng tiếng Akkad được biên soạn bởi một kinh sư tên là Sin-lēqi-unninni, có thể vào thời kỳ Trung Babylon (k. 1600 - k. 1155 TCN), tổng hợp từ các nguồn cổ hơn. Trong sử thi, Gilgamesh được mô tả là một vị vua bán thần với sức mạnh phi thường. Ông kết bạn với Enkidu và cùng nhau trải qua nhiều cuộc phiêu lưu, bao gồm việc đánh bại Humbaba (tương đương với Huwawa trong tiếng Đông Semit) và Thiên Ngưu Gugalanna, con bò thần do nữ thần Ishtar (tương đương với Inanna trong tiếng Đông Semit) gửi đến để tàn phá Uruk sau khi Gilgamesh từ chối làm người tình của bà. Sau cái chết của Enkidu do sự trừng phạt của các vị thần, Gilgamesh bắt đầu sợ hãi cái chết và tìm đến Utnapishtim, người đã sống sót sau Đại hồng thủy, với hy vọng tìm kiếm sự bất tử. Sau khi thất bại trong việc đạt được sự bất tử qua nhiều thử thách, Gilgamesh trở về Uruk và nhận ra rằng sự bất tử nằm ngoài tầm với của con người.
Hầu hết các nhà sử học cổ điển đều đồng ý rằng Sử thi Gilgamesh đã có ảnh hưởng sâu rộng đến cả Iliad và Odyssey, hai thiên sử thi nổi tiếng được viết bằng tiếng Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ thứ tám trước Công nguyên. Sử thi Gilgamesh được phát hiện trong tàn tích Thư viện Ashurbanipal vào năm 1849 và sau khi được phiên dịch vào đầu những năm 1870, đã gây ra một cuộc tranh luận lớn do sự tương đồng giữa một số phần của nó và Kinh thánh Hebrew. Mặc dù Gilgamesh ít được biết đến cho đến giữa thế kỷ 20, nhưng từ cuối thế kỷ 20 trở đi, ông đã trở thành một hình tượng quan trọng trong văn hóa hiện đại.
Nhân vật lịch sử
Nhiều nhà sử học đều nhất trí rằng Gilgamesh là một vị vua có thật trong lịch sử của thành bang Uruk ở Sumer, có thể đã trị vì vào khoảng đầu Sơ kỳ triều đại (k. 2900 - 2350 TCN). Mặc dù chưa có phát hiện khảo cổ nào vào thời điểm đó đề cập đến Gilgamesh, nhưng vào năm 1955, một bản khắc Tummal được phát hiện, bao gồm một văn bản ba mươi bốn dòng viết dưới triều đại của Vua Ishbi-Erra (k. 1953 - k. 1920 TCN), cung cấp thông tin quan trọng về triều đại của Gilgamesh. Bản khắc này ghi nhận Gilgamesh đã xây dựng các bức tường thành của Uruk. Các dòng từ 11 đến 15 được dịch như sau:
Và lần thứ hai, Tummal lại rơi vào cảnh tàn lụi,
Gilgamesh xây dựng Numunburra của Đền Enlil.
Ur-lugal, con trai của Gilgamesh,
Đưa Tummal trở lại thời kỳ huy hoàng,
Đem Ninlil về với Tummal.
Gilgamesh cũng được Vua Enmebaragesi của Kish, một nhân vật lịch sử có thể sống gần thời kỳ của Gilgamesh, đề cập như một vị vua. Hơn nữa, Gilgamesh được ghi danh là một trong những vị vua của Uruk theo Danh sách Vua Sumer. Các mảnh vỡ của một văn bản sử thi tìm thấy tại Me-Turan (hiện nay là Tell Haddad) đề cập đến việc người dân Uruk đã chuyển hướng đoạn sông Euphrates để chôn cất Gilgamesh dưới đáy sông.
Huyền thoại Lưỡng Hà
Các bài thơ Sumer
Vào cuối thời kỳ Sơ kỳ triều đại, Gilgamesh được tôn thờ như một vị thần tại nhiều nơi ở Sumer. Vào thế kỷ 20 trước Công nguyên, Utu-hengal, vua của Uruk, đã công nhận Gilgamesh là vị thần bảo trợ của mình. Các vua của Vương triều Ur thứ ba (k. 2112 - k. 2004 TCN) đặc biệt tôn kính Gilgamesh, gọi ông là 'người anh em thần thánh' và 'người bạn' của họ. Vua Shulgi của Ur (2029-1982 TCN) tự nhận mình là con trai của Lugalbanda và Ninsun, và là anh em của Gilgamesh. Trong nhiều thế kỷ, có thể đã có sự bổ sung dần dần vào các câu chuyện về Gilgamesh, một số có thể bắt nguồn từ các nhân vật lịch sử khác như Gudea, vua của Triều đại thứ hai của Lagash (2144-2124 TCN). Các lời cầu nguyện đến Gilgamesh được ghi trong nhiều phiến đất sét cho thấy ông được coi như một phán quan của người chết ở Cõi âm.
Trong thời kỳ này, nhiều huyền thoại về Gilgamesh đã được xây dựng và phát triển. Hiện còn sót lại năm bài thơ kể về các chiến công thần thoại của ông. Trong số đó, bài thơ sớm nhất có thể là Gilgamesh, Enkidu và Thế giới cõi âm. Trong đó, Gilgamesh đến giúp nữ thần Inanna đuổi những sinh vật bệnh tật khỏi cây huluppu của bà. Sau đó, Inanna thưởng cho Gilgamesh hai vật gọi là mikku và pikku, nhưng ông lại làm mất chúng. Enkidu tình nguyện xuống Cõi âm để tìm kiếm, nhưng vi phạm luật và bị kẹt lại. Phần tiếp theo miêu tả Enkidu kể cho Gilgamesh về sự đau đớn ở Địa ngục.
Bài thơ Gilgamesh và Aga kể lại cuộc nổi dậy của Gilgamesh chống lại vua Aga của Kish. Gilgamesh và Huwawa tường thuật về cuộc chiến của Gilgamesh và người bạn Enkidu, cùng với sự hỗ trợ của năm mươi chiến binh từ Uruk, đã đánh bại Huwawa, quái vật bảo vệ Rừng tuyết tùng. Trong Gilgamesh và Thiên ngưu, Gilgamesh và Enkidu đã tiêu diệt Thiên ngưu mà nữ thần Ishtar/Inanna gửi đến để tấn công họ. Một bài thơ gọi là Cái chết của Gilgamesh, tuy không còn nguyên vẹn, có thể miêu tả một lễ tang quốc gia, có thể là của Gilgamesh hoặc Enkidu.
Sử thi Gilgamesh
Theo Kramer, cuối cùng 'Gilgamesh đã trở thành một trong những anh hùng vĩ đại nhất của thế giới cổ đại. Một nhân vật phiêu lưu, dũng cảm nhưng đầy bi kịch, đại diện cho những khát vọng phù phiếm nhưng vô vọng của con người về danh tiếng, vinh quang và sự bất tử.' Vào thời kỳ Cổ Babylon (k. 1830 - k. 1531 TCN), những câu chuyện về các chiến công huyền thoại của Gilgamesh đã được biên soạn thành một hoặc nhiều trường ca. Sử thi Gilgamesh, bộ sưu tập đầy đủ nhất về các cuộc phiêu lưu của Gilgamesh, được biên soạn bằng tiếng Akkad trong thời kỳ Trung Babylon (k. 1600 - k. 1155 TCN) bởi một kinh sư tên là Sîn-lēqi-uninni. Phiên bản đầy đủ nhất của Sử thi Gilgamesh hiện còn được ghi lại trên mười hai phiến đất sét từ thế kỷ thứ bảy trước Công nguyên, tìm thấy trong tàn tích Thư viện của Ashurbanipal ở Nineveh, Assyria. Sử thi còn sót lại chỉ là các mảnh vỡ, nhiều phần bị thiếu hoặc hư hỏng. Một số học giả và dịch giả đã bổ sung những phần thiếu sót bằng cách dựa vào tài liệu từ các bài thơ Sumer trước đó hoặc các phiên bản khác của Sử thi Gilgamesh từ các khu vực khác ở Cận Đông.
Trong sử thi, Gilgamesh được giới thiệu là 'hai phần ba thần thánh và một phần ba phàm nhân.' Ban đầu, Gilgamesh được mô tả là một vị vua tàn bạo. Vì vậy, các vị thần đã tạo ra Enkidu từ bùn và đất sét để trừng phạt Gilgamesh. Enkidu được khai hóa sau khi gặp một nữ tư tế và đến Uruk để thách đấu với Gilgamesh. Gilgamesh đã chiến thắng, nhưng hai người đều công nhận tài năng của nhau và trở thành bạn thân. Họ cùng nhau thực hiện một cuộc hành trình kéo dài sáu ngày đến Rừng tuyết tùng huyền bí, nơi họ đã tiêu diệt Kẻ gác rừng, Humbaba Khủng khiếp và chặt phá cây tuyết tùng thiêng liêng. Nữ thần Ishtar mong muốn trở thành vợ của Gilgamesh, nhưng ông đã từ chối. Bị xúc phạm, nữ thần đã gửi Thiên ngưu Gugalanna để trừng phạt Gilgamesh. Gilgamesh và Enkidu đã giết Thiên ngưu, dẫn đến quyết định của các vị thần là phán Enkidu tội chết.
Trong phần sau của thiên anh hùng ca, khi nỗi đau trước cái chết của người bạn thân vẫn còn đè nặng, Gilgamesh quyết định thực hiện một cuộc hành trình đầy thử thách để khám phá bí mật của sự sống vĩnh cửu. Ông rời khỏi để tìm gặp Utnapishtim, một hiền triết sống sót qua trận Đại hồng thủy, với hy vọng tìm ra cách để trở nên bất tử. Sau nhiều lần thất bại trong việc tìm kiếm sự bất tử, Gilgamesh cuối cùng nhận ra rằng 'Cuộc sống mà ngươi khao khát mãi mãi sẽ không bao giờ đạt được. Các vị thần đã ban cho con người cái chết như một phần tất yếu, và giữ lại sự sống cho chính mình.' Gilgamesh trở về Uruk với tâm trạng thất vọng, chỉ cho người lái đò Urshanabi chiêm ngưỡng những bức tường thành vĩ đại của thành phố, khiến ông ta phải ca ngợi.
Ảnh hưởng về sau
Thời kỳ cổ đại
Sử thi Gilgamesh đã để lại dấu ấn mạnh mẽ lên hai tác phẩm sử thi Hy Lạp cổ đại, Iliad và Odyssey, từ thế kỷ thứ tám trước Công nguyên. Theo Barry B. Powell, một học giả cổ điển người Mỹ, người Hy Lạp cổ đại có thể đã tiếp xúc với các truyền thuyết của người Lưỡng Hà qua các mối liên hệ với các nền văn minh Cận Đông cổ đại, dẫn đến sự tương đồng giữa Sử thi Gilgamesh và các sử thi Homer.
Trong cuộn kinh Qumran có tên là Sách Người khổng lồ (k. 100 TCN), tên Gilgamesh và Humbaba được nhắc đến như là hai trong số các người khổng lồ, được viết dưới dạng phụ âm là glgmš và wbbyš. Những ký tự tương tự sau đó được người Mani giáo ở Trung Đông sử dụng, và tên tiếng Ả Rập Gilgamish/Jiljamish tồn tại như tên của một con quỷ, theo giáo sĩ Ai Cập Al-Suyuti (k. 1500).
Tái phát hiện trong thời hiện đại
Sử thi Gilgamesh được tái phát hiện vào năm 1849 bởi nhà khảo cổ học người Anh Austen Henry Layard tại tàn tích Thư viện Ashurbanipal ở Nineveh. Layard lúc đó đang tìm kiếm bằng chứng để chứng minh tính xác thực của các sự kiện trong Kinh Cựu Ước, được coi là bộ văn bản lâu đời nhất. Tuy nhiên, các cuộc khai quật đã tiết lộ sự tồn tại của các văn bản Lưỡng Hà còn lâu đời hơn và cho thấy nhiều câu chuyện trong Cựu Ước có thể bắt nguồn từ những huyền thoại cổ đại. Bản dịch đầu tiên của Sử thi Gilgamesh được thực hiện vào những năm 1870 bởi George Smith, một học giả của Bảo tàng Anh, người đã công bố câu chuyện Đại hồng thủy từ Phiến đất sét XI vào năm 1880 dưới tiêu đề Phiên bản Chaldea của Sáng thế kí. Lúc đầu, tên Gilgamesh bị đọc nhầm thành Izdubar.
Ban đầu, sự quan tâm đến Sử thi Gilgamesh chủ yếu tập trung vào câu chuyện về trận lũ từ Phiến đất sét XI. Câu chuyện này thu hút sự chú ý lớn và các cuộc tranh cãi học thuật, trong khi phần còn lại của sử thi thường bị bỏ qua. Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, sự quan tâm đến Sử thi Gilgamesh chủ yếu đến từ các nước nói tiếng Đức, đặc biệt là khi có cuộc tranh luận về mối liên hệ giữa Babel und Bibel ('Babylon và Kinh thánh'). Vào tháng 1 năm 1902, nhà nghiên cứu Assyria học người Đức, Friedrich Delitzsch đã trình bày tại Nhạc viện Sing-Akademie zu Berlin trước Kaiser và Hoàng hậu, cho rằng câu chuyện lũ lụt trong Kinh Sáng thế được sao chép từ Gilgamesh. Bài thuyết trình của Delitzsch gây ra tranh cãi lớn, và đến tháng 9 năm 1903, ông đã nhận được hàng nghìn phản hồi từ các báo chí và tạp chí, chỉ trích ông thậm tệ. Kaiser đã xa lánh Delitzsch và vào mùa thu năm 1904, Delitzsch phải thuyết trình ở Cologne và Frankfurt am Main thay vì Berlin. Mối quan hệ giữa Sử thi Gilgamesh và Kinh thánh Hebrew sau này được Delitzsch sử dụng trong cuốn sách năm 1920-1921 của ông, Die Grosse Täuschung (Sự dối trá to lớn), cho rằng Kinh thánh Hebrew bị 'ô nhiễm' bởi ảnh hưởng Babylon và chỉ khi loại bỏ hoàn toàn Cựu Ước, người Kitô giáo mới có thể tin vào thông điệp Aryan của Tân Ước.
Quan điểm hiện đại ban đầu
Tác phẩm văn học chuyển thể đầu tiên của Sử thi Gilgamesh là Ishtar và Izdubar (1884), do Leonidas Le Cenci Hamilton, một luật sư và doanh nhân người Mỹ, thực hiện. Hamilton chỉ có kiến thức hạn chế về tiếng Akkad qua cuốn sách Ngữ pháp Assyria cho các mục đích đối chiếu (1872) của Archibald Sayce. Tác phẩm của Hamilton dựa chủ yếu vào bản dịch của Smith nhưng đã thực hiện nhiều thay đổi lớn. Ví dụ, Hamilton đã bỏ qua câu chuyện lũ lụt nổi tiếng và tập trung vào mối quan hệ lãng mạn giữa Ishtar và Gilgamesh (Izdubar). Ishtar và Izdubar mở rộng từ khoảng 3.000 dòng của Gilgamesh thành khoảng 6.000 dòng, chia thành bốn mươi tám khổ. Hamilton cũng đã thay đổi nhiều nhân vật và thêm những chi tiết hoàn toàn mới. Chịu ảnh hưởng từ Thơ Rubaiyat của Omar Khayyam của Edward Fitzgerald và The Light of Asia của Edwin Arnold, các nhân vật trong tác phẩm của Hamilton mặc trang phục như người Thổ Nhĩ Kỳ thế kỷ 19 thay vì người Babylon cổ đại. Hamilton đã biến đổi giọng điệu của sử thi từ 'chủ nghĩa hiện thực tàn khốc' và 'bi kịch mỉa mai' của bản gốc thành một 'sự lạc quan vui vẻ' đầy 'tình yêu ngọt ngào và hòa hợp'.
Trong cuốn sách năm 1904 của mình, Das Alte Testament im Lichte des alten Orients, nhà nghiên cứu Assyria người Đức Alfred Jeremias đã so sánh Gilgamesh với vua Nimrod trong Kinh Sáng thế và cho rằng sức mạnh của Gilgamesh đến từ mái tóc của ông, giống như anh hùng Samson trong Kinh Thủ Lãnh, và rằng ông đã thực hiện Mười hai kỳ công giống như Heracles trong thần thoại Hy Lạp. Trong cuốn sách năm 1906 của mình, Das Gilgamesch-Epose in der Weltliteratur, nhà nghiên cứu Peter Jensen tuyên bố rằng Sử thi Gilgamesh là nguồn gốc của hầu hết các câu chuyện trong Cựu Ước, cho rằng Moses chính là 'Gilgamesh của Sách Xuất hành', cứu người Israel khỏi tình trạng tương tự như cư dân Erech trong sử thi Babylon. Jensen cho rằng Abraham, Isaac, Samson, David và nhiều nhân vật khác trong Kinh thánh đều là bản sao của Gilgamesh, và thậm chí Giêsu cũng chỉ là 'Gilgamesh của người Do Thái', một sự bổ sung cho Abraham, Moses và nhiều nhân vật khác. Ý tưởng này được gọi là chủ nghĩa Toàn Babylon và nhanh chóng bị các học giả chính thống bác bỏ. Hermann Gunkel đã chỉ trích Jensen vì không hiểu sự phức tạp của Cựu Ước và đã gây ra 'những sai lầm dễ thấy và lệch lạc đáng kể'.
Ở các quốc gia nói tiếng Anh, quan điểm học thuật phổ biến vào đầu thế kỷ 20 bắt nguồn từ giả thuyết của Nam tước Henry Rawlinson, cho rằng Gilgamesh là một 'anh hùng mặt trời' và 12 phiến đất sét của sử thi đại diện cho 12 cung hoàng đạo Babylon. Nhà tâm lý học Đức Sigmund Freud, dựa trên giả thuyết của James George Frazer và Paul Ehrenreich, xem Gilgamesh và Eabani (cách đọc sai của Enkidu) là biểu tượng cho 'con người' và 'nhục cảm thô thiển'. Ông so sánh họ với các cặp anh em khác trong thần thoại thế giới và kết luận rằng mô típ về cặp anh em bất bình đẳng đại diện cho mối quan hệ giữa con người và ham muốn tình dục của họ. Freud cũng xem Enkidu như là biểu tượng của nhau thai, 'người em sinh đôi yếu hơn' chết yểu sau khi sinh. Bạn và học trò của Freud, Carl Jung, thường xuyên nhắc đến Gilgamesh trong tác phẩm đầu tay Symbole der Wandlung (1911-1912). Ông trích dẫn sự ham muốn của Ishtar đối với Gilgamesh như là ví dụ về ham muốn loạn luân của mẹ đối với con trai, Humbaba là ví dụ về người cha áp bức mà Gilgamesh phải vượt qua, và Gilgamesh là ví dụ về người đàn ông quên đi sự phụ thuộc vào vô thức và bị trừng phạt bởi các 'vị thần' đại diện cho nó.
Trong văn hóa hiện đại
Sau Thế chiến II, Gilgamesh, một nhân vật từng chỉ được một số học giả biết đến, đã trở nên ngày càng phổ biến trong giới hiện đại. Sự hiện sinh của sử thi làm cho nó trở nên đặc biệt hấp dẫn với các tác giả Đức thời kỳ hậu chiến. Trong cuốn tiểu thuyết hiện sinh năm 1947 của mình, Die Stadt hinter dem Strom, tác giả Hermann Kasack đã dùng các yếu tố từ sử thi để tạo nên phép ẩn dụ về hậu quả của cuộc chiến ở Đức, miêu tả thành phố Hamburg bị bom đạn giống như Địa ngục mà Enkidu mơ thấy. Tác phẩm lớn của Hans Henny Jahnn, Dòng sông không bờ, (1949-1950), phần giữa của bộ ba tiểu thuyết kể về mối quan hệ đồng tính kéo dài hai mươi năm giữa một nhà soạn nhạc và một người bạn, phản ánh hình ảnh Gilgamesh và Enkidu, với kiệt tác của ông là một bản giao hưởng về Gilgamesh.
Chương trình phát thanh năm 1953 The Quest of Gilgamesh (tạm dịch: Cuộc Phiêu Lưu của Gilgamesh) của Douglas Geoffrey Bridson đã góp phần làm nổi tiếng sử thi ở Anh. Tại Hoa Kỳ, Charles Olson đã ca ngợi sử thi trong thơ và tiểu luận của mình, tin rằng nó chứa đựng những giá trị đạo đức cổ xưa có thể cứu rỗi những gì ông coi là sự suy đồi đạo đức hiện đại. Cuốn tiểu thuyết chuyển thể năm 1966, Gilgamesch của Guido Bachmann, đã trở thành tác phẩm kinh điển trong 'văn học đồng tính luyến ái' Đức và mở đường cho một xu hướng văn học quốc tế dài hàng thập kỷ miêu tả Gilgamesh và Enkidu như những người yêu đồng tính. Xu hướng này phổ biến đến mức chính Sử thi Gilgamesh được đưa vào Tuyển tập văn học đồng tính Columbia (1998) như tác phẩm đầu tiên của thể loại này. Trong những năm 1970 và 1980, các nhà phê bình nữ quyền đã phân tích Sử thi Gilgamesh như là bằng chứng cho sự chuyển đổi từ chế độ mẫu hệ nguyên thủy sang chế độ phụ hệ hiện đại. Khi Phong trào Xanh lan rộng ở châu Âu, câu chuyện của Gilgamesh bắt đầu được nhìn nhận qua lăng kính bảo vệ môi trường, với cái chết của Enkidu tượng trưng cho sự xa rời của con người với thiên nhiên.
Theodore Ziolkowski, một nhà nghiên cứu văn học hiện đại, cho rằng 'khác với hầu hết các nhân vật khác từ thần thoại, văn học và lịch sử, Gilgamesh đã nổi lên như một thực thể độc lập hoặc đơn giản là một cái tên tách biệt với bối cảnh sử thi gốc mà ông được biết đến. (Các ví dụ khác có thể kể đến như Minotaur hoặc quái vật của Frankenstein.)' Sử thi Gilgamesh đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ lớn trên thế giới và trở thành phần không thể thiếu trong chương trình văn học toàn cầu ở Mỹ. Năm 2000, một bức tượng Gilgamesh hiện đại của nhà điêu khắc Assyria Lewis Batros đã được đặt tại Đại học Sydney ở Úc.
Từ cuối thế kỷ 20, Sử thi Gilgamesh bắt đầu được đọc trở lại ở Iraq. Saddam Hussein, cựu Tổng thống Iraq, rất say mê với Gilgamesh. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của Hussein, Zabibah và nhà Vua (2000), là một câu chuyện ngụ ngôn về Chiến tranh vùng Vịnh, lấy bối cảnh Assyria cổ đại và pha trộn các yếu tố từ Sử thi Gilgamesh và Nghìn lẻ một đêm. Giống như Gilgamesh, nhà vua trong cuốn tiểu thuyết ban đầu là một bạo chúa tàn bạo, nhưng nhờ sự giúp đỡ của một người phụ nữ tên Zabibah, ông đã trở thành một vị vua sáng suốt. Khi Hoa Kỳ gây sức ép buộc Hussein từ chức vào tháng 2 năm 2003, Hussein đã so sánh mình với người anh hùng sử thi trong một bài phát biểu trước các tướng lĩnh.
Vào năm 2004, Gilgamesh xuất hiện trong loạt visual novel nổi tiếng của Nhật Bản, Fate/stay night, cùng với nhiều sản phẩm khác như truyện tranh, anime, light novel, và trò chơi điện tử thuộc franchise Fate do Type-Moon phát triển. Trong series này, nhân vật Gilgamesh được hình thành dựa trên truyền thuyết cổ đại, là một anh linh được triệu hồi để tham gia vào cuộc chiến giành Chén Thánh. Nhân vật này có biệt danh 'Vua của Anh hùng', được coi là vị anh hùng cổ xưa nhất, và sở hữu bảo vật Gate of Babylon, nơi lưu giữ tất cả các vũ khí và báu vật nguyên bản trên thế giới.