
Giấy thương mại là một công cụ nợ ngắn hạn được phát hành bởi các công ty để tài trợ cho hàng tồn kho, các khoản phải trả, tiền lương và các khoản nợ ngắn hạn khác.
Thế giới các chứng khoán thu nhập cố định có thể chia thành hai danh mục chính: thị trường vốn và thị trường tiền tệ. Thị trường vốn bao gồm các chứng khoán có kỳ hạn hơn 270 ngày, trong khi thị trường tiền tệ bao gồm các chứng khoán có kỳ hạn 270 ngày hoặc ít hơn, trong đó giấy thương mại thuộc về thị trường tiền tệ.
Những điểm chính cần lưu ý
- Giấy thương mại là một hình thức thông thường của nợ không đảm bảo, có kỳ hạn ngắn được phát hành bởi một công ty.
- Giấy thương mại thường được phát hành để tài trợ cho tiền lương, các khoản phải trả, hàng tồn kho và đáp ứng các nghĩa vụ ngắn hạn khác.
- Kỳ hạn của hầu hết giấy thương mại dao động từ vài tuần đến vài tháng.
- Giấy thương mại thường được phát hành với giá giảm so với giá trị thực và phản ánh các tỷ lệ lãi suất thị trường hiện hành.
Đặc điểm của Giấy thương mại
Giấy thương mại là một hình thức giấy nợ không tài sản bảo đảm trả lãi suất cố định. Thường được các ngân hàng lớn hoặc tập đoàn phát hành để bao phủ các khoản phải thu ngắn hạn và đáp ứng các nghĩa vụ tài chính ngắn hạn, như tài trợ cho một dự án mới.
Tương tự như bất kỳ loại trái phiếu hay công cụ nợ nợ khác, đơn vị phát hành cung cấp giấy thường nghĩ rằng nó sẽ có khả năng thanh toán cả lãi và gốc vào ngày đáo hạn. Nó hiếm khi được sử dụng làm phương tiện tài trợ cho các nghĩa vụ dài hạn hơn vì có các phương án thay thế phù hợp hơn cho mục đích đó.
Giấy thương mại cung cấp một phương pháp tài chính thuận tiện vì nó cho phép người phát hành tránh các rào cản và chi phí của việc xin vay và đảm bảo khoản vay doanh nghiệp liên tục, và Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC) không yêu cầu các chứng khoán giao dịch trên thị trường tiền tệ phải được đăng ký. Thông thường được cung cấp với mức giảm giá với thời hạn có thể kéo dài từ một đến 270 ngày, mặc dù hầu hết các vấn đề đáo hạn trong một đến sáu tháng.
Lịch sử của Giấy thương mại
Giấy thương mại được giới thiệu lần đầu cách đây hơn 100 năm khi các thương nhân New York bắt đầu bán các nghĩa vụ ngắn hạn của họ cho các nhà môi giới đóng vai trò trung gian. Những nhà môi giới này sẽ mua các đơn từ với mức giảm giá so với giá trị gốc và sau đó chuyển tiếp chúng cho ngân hàng hoặc các nhà đầu tư khác. Người vay sau đó sẽ hoàn trả cho nhà đầu tư một số tiền bằng giá trị gốc của đơn từ.
Marcus Goldman của Goldman Sachs là nhà môi giới đầu tiên trên thị trường tiền tệ mua giấy thương mại, và công ty của ông trở thành một trong những nhà môi giới giấy thương mại lớn nhất ở Mỹ sau Chiến tranh Dân sự. Cục Dự trữ Liên bang cũng bắt đầu giao dịch giấy thương mại cùng với các trái phiếu Chính phủ từ thời điểm đó cho đến Thế chiến II để điều chỉnh mức dự trữ tiền tệ lưu thông giữa các ngân hàng.
Sau chiến tranh, giấy thương mại bắt đầu được phát hành bởi một số lượng ngày càng tăng các công ty, và cuối cùng, nó trở thành công cụ nợ hàng đầu trên thị trường tiền tệ. Phần lớn sự phát triển này được hỗ trợ bởi sự gia tăng của ngành công nghiệp tín dụng tiêu dùng, khi nhiều nhà phát hành thẻ tín dụng cung cấp các dịch vụ và cơ sở hạ tầng cho các thương nhân sử dụng tiền được tạo ra từ giấy thương mại. Những nhà phát hành thẻ sau đó sẽ mua các khoản phải thu đặt trên thẻ từ khách hàng này (và thu được lợi nhuận đáng kể từ sự chênh lệch này).
Cuộc tranh luận gay gắt đã diễn ra vào những năm 1980 về việc liệu các ngân hàng có vi phạm Đạo luật Ngân hàng năm 1933 bằng cách bảo lãnh giấy thương mại khi nó không được phân loại làm trái phiếu bởi SEC. Ngày nay, giấy thương mại vẫn là nguồn tài trợ ngắn hạn chính cho các nhà phát hành có hạng đầu cùng với các khoản vay thương mại và vẫn được sử dụng rộng rãi trong ngành thẻ tín dụng.
Ghi chú
Giấy thương mại thường có chi phí thấp, rủi ro thấp, dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt, lợi suất cao hơn và được chấp nhận rộng rãi.
Thị trường Giấy thương mại
Giấy thương mại truyền thống đã được phát hành và giao dịch giữa các tổ chức với đơn vị tiền là $100,000, với các đơn từ vượt quá mức này có sẵn trong các khoản tăng $1,000. Các tập đoàn tài chính như các công ty đầu tư, ngân hàng và quỹ tập trung lịch sử đã là những người mua chính trên thị trường này, và một thị trường phụ cấp giới hạn cho giấy thương mại này tồn tại trong ngành ngân hàng.
Các nhà đầu tư cá nhân giàu có cũng lịch sử đã có thể tiếp cận các phiên bản giấy thương mại thông qua các định vị tư nhân. Thị trường đã chịu tổn thất nặng khi Lehman Brothers tuyên bố phá sản vào năm 2008, và các quy định mới về loại và số lượng giấy thương mại có thể được giữ trong các quỹ thị trường tiền tệ đã được thiết lập như một kết quả. Tuy nhiên, các công cụ này ngày càng phổ biến đối với nhà đầu tư bán lẻ thông qua các kênh trực tuyến do các công ty con tài chính tài trợ.
Giấy thương mại thường trả lãi suất cao hơn so với các công cụ bảo đảm, và tỷ lệ lãi suất thường tăng theo tăng trưởng kinh tế quốc gia. Một số tổ chức tài chính thậm chí cho phép khách hàng của họ viết séc và thực hiện chuyển khoản trực tuyến với các tài khoản quỹ giấy thương mại cùng cách như một tài khoản tiền mặt hoặc thị trường tiền mặt.
Tuy nhiên, các nhà đầu tư cần nhận thức rằng những đơn từ này không được bảo hiểm bởi FDIC. Chúng chỉ được bảo đảm bởi sức mạnh tài chính của người phát hành tương tự như bất kỳ loại trái phiếu doanh nghiệp hoặc trái phiếu nợ nào khác. Standard & Poor’s và Moody’s đều đánh giá giấy thương mại thường xuyên bằng cùng hệ thống xếp hạng như cho các trái phiếu doanh nghiệp, với AAA và Aaa là các hạng xếp hạng cao nhất của họ.
Tương tự như bất kỳ loại đầu tư nợ nợ khác, các đề xuất giấy thương mại với xếp hạng thấp trả lãi suất cao tương ứng. Tuy nhiên, không có thị trường rác nào có sẵn, vì giấy thương mại chỉ có thể được cung cấp bởi các công ty có xếp hạng đầu tư.
Không trả lãi suất của Giấy thương mại
Về mặt thực tế, Đại lý Phát hành và Thanh toán, hoặc IPA, chịu trách nhiệm báo cáo về sự mặc nợ của người phát hành giấy thương mại cho các nhà đầu tư và bất kỳ ủy ban giao dịch liên quan nào.
Do giấy thương mại không có tài sản đảm bảo, nên đối với những nhà đầu tư nắm giữ giấy thương mại mặc nợ, có rất ít cơ hội khác ngoài việc gọi các khoản nợ khác hoặc bán các cổ phiếu nắm giữ của công ty. Trong thực tế, một sự mặc nợ lớn thực sự có thể làm sợ hãi toàn bộ thị trường giấy thương mại. Nhiều người phát hành giấy thương mại mua bảo hiểm như một hình thức dự phòng.
Các loại giấy thương mại phổ biến bao gồm các nháp, giấy nợ, chứng chỉ tiền gửi, thư tín dụng, các loại giấy nợ có cấu trúc, giấy nợ đã đăng ký và giấy thương mại có bảo đảm bằng các khoản phải thu.
Giao dịch trong Giấy thương mại
Người đầu tư bán lẻ có thể mua giấy thương mại, mặc dù có nhiều hạn chế làm cho việc này khó khăn hơn. Hầu hết giấy thương mại được bán và mua lại cho các nhà đầu tư tổ chức, chẳng hạn như các tổ chức tài chính lớn, quỹ đầu tư rủi ro và các tập đoàn đa quốc gia.
Một nhà đầu tư bán lẻ sẽ cần có quyền truy cập vào số vốn rất lớn để mua và sở hữu giấy thương mại; nếu không, đầu tư gián tiếp có thể thông qua quỹ tập trung, quỹ giao dịch trao đổi (ETF) hoặc tài khoản thị trường tiền mặt được quản lý và nắm giữ tại một tổ chức giữ tiền.
Các yếu tố như chi phí quản lý, quy mô vốn có thể đầu tư và quyền truy cập vào thị trường vốn có thể làm cho việc mua và sở hữu giấy thương mại rất khó khăn đối với cá nhân hoặc nhà đầu tư bán lẻ.
Ví dụ, giấy thương mại thường được bán thành lô tròn $100,000. Ngưỡng này tự mình khiến việc mua giấy thương mại nói chung chỉ dành riêng cho các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân giàu có.
Hơn nữa, các nhà môi giới phát hành giấy thương mại thay mặt cho khách hàng có mối quan hệ sẵn có với người mua tổ chức làm cho thị trường hiệu quả thông qua các giao dịch mua lớn của đợt phát hành chính. Họ không có khả năng nhìn vào các nhà đầu tư cá nhân như một nguồn vốn để tài trợ cho giao dịch.
Tỷ lệ và giá cả của Giấy thương mại
Hội đồng Dự trữ Liên bang đăng các tỷ lệ hiện tại được trả bởi giấy thương mại trên trang web của nó. FRB cũng công bố tỷ lệ của giấy thương mại tài chính và không tài chính được xếp hạng AA trong bản phát hành thống kê H.15 hàng ngày vào các ngày thường từ thứ Hai đến thứ Sáu vào lúc 4:15 chiều.
Dữ liệu được sử dụng cho bản xuất bản này được lấy từ Tổ chức Thanh toán và Xóa giấy chứng nhận (DTCC), và các tỷ lệ được tính dựa trên mối quan hệ ước tính giữa tỷ lệ lãi suất của các phát hành mới và thời hạn đáo hạn của chúng.
Thông tin bổ sung về tỷ lệ và khối lượng giao dịch có sẵn mỗi ngày cho hoạt động của ngày trước đó. Số liệu cho mỗi vấn đề giấy thương mại đang tồn tại cũng có sẵn vào cuối ngày làm việc vào mỗi thứ Tư và vào ngày cuối cùng của mỗi tháng.
Các loại Giấy thương mại
Thường có bốn loại giấy thương mại: ký quỹ, hối phiếu, séc và chứng chỉ gửi tiền (CDs).
- Ký quỹ: Ký quỹ là lời hứa bằng văn bản để thanh toán một số tiền nhất định cho một người hay thực thể cụ thể vào một ngày cụ thể hoặc theo yêu cầu, và là hình thức phổ biến nhất của giấy thương mại. Ký quỹ thường được sử dụng trong các giao dịch thương mại như một cách để một bên vay tiền từ bên khác.
- Hối phiếu: Hối phiếu là một chỉ thị bằng văn bản yêu cầu một ngân hàng thanh toán một số tiền nhất định cho một người hay thực thể chỉ định. Có hai loại hối phiếu: hối phiếu ngay thì, được thanh toán khi được đưa ra cho ngân hàng, và hối phiếu hẹn giờ, được thanh toán vào một ngày sau đó.
- Séc: Séc là một chỉ thị bằng văn bản yêu cầu một ngân hàng thanh toán một số tiền nhất định cho một người hay thực thể chỉ định. Séc có thể là séc cá nhân, được phát hành bởi cá nhân, hoặc séc ngân hàng, được phát hành bởi ngân hàng.
- Chứng chỉ gửi tiền (CDs): Chứng chỉ gửi tiền là một loại tiền gửi có kỳ hạn được cung cấp bởi các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác. Đó là lời hứa để thanh toán cho người gửi một số tiền cố định vào một ngày cụ thể trong tương lai. CDs thường có thời hạn cố định và lãi suất cố định.
Lợi ích và rủi ro của Giấy thương mại
Có nhiều lợi ích khi sử dụng giấy thương mại là nguồn tài trợ. Một lợi ích là tốc độ; giấy thương mại có thể phát hành nhanh chóng, làm cho nó là một lựa chọn tốt cho các công ty cần huy động vốn gấp trong thời gian ngắn.
Một lợi ích khác là tính linh hoạt; các công ty có thể sử dụng giấy thương mại để huy động vốn cho nhiều mục đích khác nhau, bao gồm vốn làm việc, tài trợ hàng tồn kho và tái tài chính nợ. Ngoài ra, giấy thương mại thường có chi phí thấp hơn so với các loại vay ngắn hạn khác như vay ngân hàng và có thể giúp các công ty chứng minh sự ổn định tài chính và khả năng trả nợ của họ đến các nhà đầu tư tiềm năng, có thể cải thiện tổng thể xếp hạng tín dụng của họ.
Tuy nhiên, cũng có một số rủi ro cần cân nhắc khi sử dụng giấy thương mại. Điều này bao gồm rủi ro tín dụng, khi người phát hành giấy thương mại có thể không đáp ứng các nghĩa vụ thanh toán của mình; rủi ro lãi suất, khi giá trị của giấy thương mại có thể biến động phản ứng với sự thay đổi trong lãi suất; rủi ro thanh khoản, khi giấy thương mại có thể không dễ dàng giao dịch hoặc bán được; và rủi ro quy định, khi giấy thương mại không chịu sự giám sát cấp độ cao như các loại chứng khoán khác, tăng nguy cơ gian lận hoặc hành vi bất chính khác từ người phát hành.
Có thể phát hành nhanh chóng
Sử dụng cho nhiều mục đích
Lãi suất thường thấp hơn so với các loại vay ngắn hạn khác
Tiềm năng để cải thiện tín dụng
Rủi ro thanh khoản
Rủi ro quy định
Rủi ro lãi suất
Rủi ro tín dụng
Ví dụ về Giấy Thương mại
Hãy nói rằng một công ty cần huy động vốn để tài trợ cho một dòng sản phẩm mới. Công ty có một xếp hạng tín dụng mạnh mẽ và một lịch sử hoạt động tài chính tốt, vì vậy nó quyết định phát hành giấy thương mại để huy động vốn cần thiết.
Công ty hợp tác với một tổ chức tài chính để phát hành 10 triệu đô la giấy thương mại với thời hạn 180 ngày và lãi suất 2%. Công ty sử dụng tiền thu được từ việc bán giấy để tài trợ cho việc phát triển và sản xuất dòng sản phẩm mới. Đến khi giấy đáo hạn, công ty trả lại các nhà đầu tư số tiền gốc cộng thêm lãi suất đã thỏa thuận.
Quy trình này giúp công ty nhanh chóng và hiệu quả huy động vốn cần thiết để tài trợ cho dòng sản phẩm mới mà không cần phải chấp nhận thêm nợ hoặc vốn chủ sở hữu.
Tại sao sử dụng Giấy Thương mại?
Giấy thương mại thường được phát hành bởi các công ty để huy động vốn để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính ngắn hạn của họ. Điều này có thể bao gồm sử dụng vốn để làm vốn làm việc, tái tài chính nợ, tài trợ cho các chi tiêu vốn và đáp ứng các cam kết tài chính khác. Mục đích của việc phát hành giấy thương mại là cung cấp cho các công ty một cách nhanh chóng, hiệu quả về chi phí và thời gian để huy động vốn cần thiết để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính và phát triển kinh doanh của họ.
Ai phát hành Giấy thương mại?
Giấy thương mại thường được phát hành bởi các công ty lớn, tài chính vững mạnh với hạng mục tín dụng tốt. Các công ty này có thể bao gồm các tập đoàn, cơ quan tài chính và các doanh nghiệp khác. Các công ty phát hành giấy thương mại muốn huy động vốn để đáp ứng các nghĩa vụ tài chính ngắn hạn của họ và có thể sử dụng số tiền thu được từ việc bán giấy để thực hiện nhiều mục đích, bao gồm vốn làm việc, tài trợ hàng tồn kho và tái tài chính nợ.
Sự khác biệt giữa Giấy thương mại và Trái phiếu doanh nghiệp là gì?
Giấy thương mại và trái phiếu doanh nghiệp đều là các loại chứng khoán nợ được phát hành bởi các công ty để huy động vốn. Tuy nhiên, có một số điểm khác biệt chính giữa hai loại này:
- Thời hạn đáo hạn: Giấy thương mại có thời hạn ngắn, thường từ vài ngày đến 270 ngày. Trái phiếu doanh nghiệp, ngược lại, có thời hạn lâu hơn, thường từ năm đến 30 năm.
- Hạng mục tín dụng: Giấy thương mại thường được phát hành bởi các công ty vững mạnh với hạng mục tín dụng cao, trong khi trái phiếu doanh nghiệp có thể được phát hành bởi các công ty với nhiều hạng mục tín dụng khác nhau.
- Lãi suất: Lãi suất trên giấy thương mại thường thấp hơn so với trái phiếu doanh nghiệp, phản ánh mức độ rủi ro thấp hơn của giấy thương mại.
- Đăng ký: Giấy thương mại không được đăng ký với Ủy ban Chứng khoán và Giao dịch (SEC) và do đó không chịu cùng mức độ giám sát của trái phiếu doanh nghiệp.
- Giao dịch: Giấy thương mại thường được giao dịch trên thị trường ngoài quầy (OTC), trong khi trái phiếu doanh nghiệp thường được giao dịch trên sàn giao dịch cùng với thị trường OTC.
- Tài sản thế chấp: Một số giấy thương mại có thể được bảo đảm bằng tài sản thế chấp, chẳng hạn như hàng tồn kho hoặc công nợ phải thu, trong khi trái phiếu doanh nghiệp thường không có tài sản thế chấp.
Kết luận
Giấy thương mại là một cách để các công ty huy động vốn ngắn hạn để tài trợ hoạt động và chi phí vận hành. Đây cũng là một lựa chọn ngày càng phổ biến đối với các nhà đầu tư bán lẻ từ nhiều nguồn khác nhau. Những ai tìm kiếm mức sinh lợi cao sẽ có thể thấy các công cụ này hấp dẫn do lợi suất vượt trội kèm theo rủi ro nhỏ.