1. Mẫu số 1
2. Mẫu số 2
3. Mẫu số 3
Đề bài: Giới thiệu về nhà thơ Thế Lữ và bài thơ Nhớ rừng
3 mô hình văn bản Giới thiệu về nhà thơ Thế Lữ và bài thơ Nhớ rừng
1. Giới thiệu về nhà thơ Thế Lữ và bài thơ Nhớ rừng, mô hình số 1:
Thế Lữ, tên khai sinh Nguyễn Thứ Lễ, sinh năm 1907 tại ấp Thái Hà, Hà Nội, và qua đời năm 1989. Quê quán: làng Phù Đổng, huyện Tiên Du (nay là Tiên Sơn), tỉnh Bắc Ninh.
Trong tuổi thơ, Thế Lữ học tại Hải Phòng. Năm 1929, hoàn thành bậc Thành chung, ông theo học tại Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, sau đó nghỉ học vào năm 1930. Thế Lữ tham gia Tự lực văn đoàn từ năm 1932 và là một trong những nhà văn chính của báo Phong hoá và Ngày nay. Năm 1937, ông bắt đầu sự nghiệp sân khấu, làm diễn viên, đạo diễn, diễn viên du kích tại các tỉnh miền Trung... và có ước mơ xây dựng nền sân khấu dân tộc. Tham gia kháng chiến tại Việt Bắc trong Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Tác giả đã công bố: Một số tác phẩm nổi bật của Thế Lữ bao gồm: Mấy khúc thơ (thơ, 1935); Vàng và máu (truyện, 1934); Bên đường Thiên lôi (truyện, 1936),... Ngoài ra, Thế Lữ cũng là tác giả của nhiều kịch bản xuất sắc như Cụ Đạo sư ông (kịch, 1946); Đoàn biệt động (1947); Đợi chờ (1949); Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952); không chỉ thế, ông còn là người dịch giả tài năng của nhiều tác phẩm sân khấu từ các nền văn hóa khác nhau như Séc, Nga, Pháp, và Bồ Đào Nha...
Thế Lữ, một trong những đại diện hàng đầu của phong trào Thơ mới, đã để lại dấu ấn không thể phai nhòa với bài thơ Nhớ rừng. Không gì có thể nói về Thế Lữ mà không nhắc đến tác phẩm nổi tiếng này.
Sự ra đời của phong trào Thơ mới trong những năm đầu thế kỷ XX đã tạo nên một cách mạng mạnh mẽ, đặc biệt trong lĩnh vực văn chương, đặc biệt là thơ. Các dạng thơ truyền thống (đặc biệt là từ thời Đường luật) với hình thức cứng nhắc và niêm luật đã trở nên chật chội, không còn phù hợp với những tư duy và cảm xúc mới mẻ, đầy sức sống. Đổi mới về hình thức, cùng với sự đổ vào đó những dòng cảm xúc sôi nổi, mạnh mẽ, như những con sông lửa đang tràn ngập. Nhớ rừng là một ví dụ điển hình cho làn sóng sáng tạo này.
2. Giới thiệu về nhà thơ Thế Lữ và bài thơ Nhớ rừng, mẫu số 2:
Thế Lữ tỏa sáng như một ngôi sao trên bầu trời thi ca Việt Nam trong đầu thế kỷ XX. Mặc dù không phải là hiện tượng như Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử hay Chế Lan Viên, nhưng ông là người đã đặt nền móng cho sự xây dựng lâu đài Thơ mới.
Xuất thân và vị trí của Thế Lữ trong làng văn:
Thế Lữ sinh năm 1907, qua đời năm 1989 tại Hà Nội, tên khai sinh Nguyễn Thứ Lễ. Là một nhà thơ, nhà văn và nhà hoạt động sân khấu nổi tiếng của Việt Nam thế kỷ XX. Ông nổi tiếng từ những năm 1930 với những tác phẩm Thơ mới, đặc biệt là bài Nhớ rừng. Thế Lữ là người tiên phong hàng đầu trong phong trào đổi mới thơ ca Việt Nam đầu thế kỷ XX và là cây bút chủ chốt đặt nền móng cho phong trào Thơ mới.
Những hoạt động quan trọng của Thế Lữ:
Thế Lữ bắt đầu học chữ Nho khi 8 tuổi, sớm chuyển sang chữ Quốc ngữ khi 10 tuổi. Năm 1925, ông tham gia Cao đẳng Tiểu học Bonnal ở Hải Phòng, nhưng sau 3 năm, ông rời khỏi. Trong những năm học Thành chung, ông bị ảnh hưởng bởi tinh thần yêu nước của học sinh, qua bản tin Việt Nam hồn từ Pháp, và từ các giáo viên như Trịnh Đình Rư, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Hữu Tảo.
Ông tham gia nhanh chóng vào lĩnh vực nghệ thuật, trở thành một nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới ngay từ đầu. Thơ của ông thể hiện tâm trạng của những người yêu nước, nhưng vẫn chưa tìm thấy con đường để giải cứu đất nước. Giọng thơ của ông trong trẻo, đôi khi mang nét buồn, hòa quyện với tâm trạng uẩn uất.
Từ năm 1937, hoạt động của Thế Lữ chuyển hướng chủ yếu vào kịch nói, trở thành diễn viên, đạo diễn, nhà viết kịch, và là trưởng ban kịch Tinh Hoa, Thế Lữ, Anh Vũ. Hoạt động mạnh mẽ cho đến sau Cách mạng tháng Tám, ông đóng góp quan trọng cho sự phát triển của nền kịch sân khấu Việt Nam đầu thế kỉ XX.
Ngoài ra, Thế Lữ còn sáng tác truyện ngắn, truyện trinh thám, truyện đường rừng, truyện kinh dị. Tác phẩm của ông hấp dẫn, có cốt truyện lôi cuốn, giọng kể thâm trầm, và đầy kịch tính, tạo nên sự cuốn hút trong lòng độc giả.
Trong giai đoạn kháng chiến, ông tích cực tham gia chiến đấu chống lại thực thể Pháp, đồng thời đóng góp mạnh mẽ bằng nghệ thuật kịch để động viên tinh thần chiến đấu của nhân dân.
Sau khi đất nước giành độc lập, Thế Lữ tiếp tục đóng góp cho sự phát triển của văn hóa dân tộc. Ông qua đời vào năm 1986 tại Hà Nội.
Các tác phẩm quan trọng của Thế Lữ:
Thơ:
Mấy khúc thơ (1935), Mấy khúc thơ, tập mới (1941)
Tác phẩm sân khấu:
Dương Quý Phi (1942), Người mù (1946), Cụ đạo sư ông (1946), Đoàn biệt động (1947), Đề Thám (1948), Đợi chờ (1949), Tin chiến thắng Nghĩa Lộ (1952)
Tác phẩm truyện:
Vàng và máu (1934), Bên đường thiên lôi (1936), Lê Phong phóng viên (1937), Mai Hương và Lê Phong (1937), Đòn hẹn (1937), Gói thuốc lá (1940), Gió trăng ngàn (1941), Trại Bồ Tùng Linh (1941), Thoa (truyện ngắn, 1942), Truyện tình của anh Mai (truyện vừa, 1953), Tay đại bợm (truyện ngắn, 1953)
Ca khúc:
Xuân và tuổi trẻ (1946), có lời do La Hối sáng tác
Thế Lữ cũng là người dịch giả cho nhiều tác phẩm kịch nổi tiếng của Shakespeare, Goethe, Schiller,...
Dù thành công ở nhiều lĩnh vực nghệ thuật, khi nhắc đến Thế Lữ, người ta thường ghi nhớ một nhà thơ tài năng, người mở đầu cho sự đổi mới trong phong trào thơ Mới ở Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Đánh giá về Thế Lữ:
Có thể nói, Thế Lữ là một con người đa tài, thành công ở nhiều lĩnh vực. Ông thể hiện sức sáng tạo mạnh mẽ, ý chí phi thường, và có một nhân cách cao đẹp.
Đánh giá sự nghiệp của Thế Lữ, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã viết: '... đóng góp lớn trong việc xây dựng nền thơ mới. Phan Khôi, Lưu Trọng Lư chỉ là những người làm cho mọi người chú ý đến Thơ mới, còn Thế Lữ mới chính là người khiến mọi người tin vào tương lai của Thơ mới. Thơ của ông không chỉ mới về lời văn mà còn mới ở cả tầm nhìn'...
Để chú ý đến điều này, trong tác phẩm 'Thi nhân Việt Nam', Hoài Thanh đã tôn trọng đặt tên Thế Lữ ở vị trí tiên phong.
Xuân Diệu cũng khen ngợi Thế Lữ là 'người được ưa chuộng nhất trong số những nhà thơ mới từ khoảng 1932 - 1937'. Có lẽ, điều này là do thơ của Thế Lữ luôn nhẹ nhàng, tinh tế; như tiếng hát vô tư bay bổng, lúc êm đềm; cũng giống như tiếng gió vuốt nhẹ, tiếng sáo reo từ xa tới gần, có sức cuốn hút đặc biệt.
Bất kể như thế nào, ảnh hưởng và vai trò tiên phong của Thế Lữ đối với thơ mới vẫn được công nhận. Trong cuốn sách Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã nhận xét:
'Thế Lữ như vì sao bất ngờ, ánh sáng rực rỡ trên bầu trời thơ Việt Nam. Người ta không thể không nhận ra đó là sự đóng góp của Thế Lữ trong việc xây dựng nền thơ mới ở đất nước này... Ngay từ khi thơ mới mới bắt đầu, Thế Lữ đã tỏa sáng như ngôi sao bất ngờ, chiếu sáng toàn bộ bầu trời thơ Việt Nam... Thế Lữ không cần phải nói về thơ mới, không cần bảo vệ thơ mới, không tham gia cuộc chiến tranh lý lẽ, không diễn thuyết. Thế Lữ chỉ im lặng, chỉ bước đi một cách điều dần, nhưng trong một khoảnh khắc, toàn bộ dòng thơ cũ phải chấm dứt'.
Đó là đánh giá cao quý nhất dành cho một nghệ sĩ đã dành trọn tâm huyết cho sự phát triển của văn học quê hương.
Phong cách thơ của Thế Lữ:
Thế Lữ được coi là người pionner về việc đề cao cái đẹp trong nghệ thuật. Ông công khai tuyên bố nghệ thuật là sự tìm kiếm cái đẹp. Do đó, thơ của ông thể hiện niềm đam mê với cái đẹp, khám phá cái đẹp ở mọi nơi, trong mọi âm thanh và màu sắc. Nhiều bài thơ của ông thể hiện hình ảnh của cõi tiên tuyệt vời hoặc cảnh đẹp tràn ngập. Cái đẹp trong thơ Thế Lữ được thể hiện là cái đẹp cao quý, thanh lịch và lý tưởng.
Thơ Thế Lữ cũng chạm đến chủ đề tình yêu, nhưng tình yêu trong thơ của ông thường hướng về sự thanh cao, ảo diệu và dè dặt, không mê đắm và cuồng nhiệt như trong thơ tình ở các thời kỳ sau. Ông sử dụng tình yêu để tôn vinh vẻ đẹp của con người, lấy nỗi đau làm nguồn cảm hứng nghệ thuật. Ông tìm thấy trong đó vẻ đẹp của hy vọng mong manh và của sự hi sinh vĩ đại.
Thể hiện lòng mong muốn thoát ly khỏi hiện thực xã hội, thơ của Thế Lữ thể hiện xu hướng tìm kiếm hướng đi mới cho tâm hồn, phản ánh tâm trạng của nghệ sĩ lúc bấy giờ. Ông sáng tạo hình ảnh tài tử không hòa hợp với xã hội, chán ghét cuộc sống giả tạo, mong muốn một cuộc sống tự do, cô độc và kiêu hãnh.
Ông khao khát cuộc sống tự do, muốn thoát khỏi sự chật chội để khám phá thế giới rộng lớn hơn. Thực tế nhỏ bé không đủ sức chứa nỗi sôi nổi tâm hồn của ông. Tâm sự và khát vọng của Thế Lữ cũng phản ánh tâm trạng và khát vọng của thế hệ thanh niên tri thức tiểu tư sản đang tìm kiếm con đường riêng cho bản thân.
Thế Lữ đã truyền cảm hứng sáng tạo cho thế hệ sau. Ông có thể coi là người ảnh hưởng lớn nhất đối với các nhà thơ tài năng như Xuân Diệu, Huy Cận, Anh Thơ,...
Tôn vinh:
Sau khi rời bỏ thế gian, Thế Lữ tiếp tục được ghi nhận là một nghệ sĩ tiên phong, có công lớn trong việc mở đầu phong trào Thơ mới và là 'người đầu tiên đưa hoạt động nghệ thuật biểu diễn kịch nói ở nước ta trở thành chuyên nghiệp và có công xây dựng nó trở thành một nghệ thuật sân khấu hoàn chỉnh'.
Năm 2000, Thế Lữ nhận được Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật cho hai tác phẩm Cụ đạo, Sự ông và Đề Thám, đánh dấu sự đóng góp của ông trong những năm kháng chiến. Ông được tưởng nhớ bằng việc đặt tượng trưng ở Nhà truyền thống của Nhà hát Kịch Việt Nam.
Thế Lữ được tôn vinh qua việc đặt tên cho nhiều đường phố ở Đà Nẵng, Hải Phòng, Huế và Thành phố Hồ Chí Minh. Tác phẩm của ông đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên khắp thế giới.
Những giá trị thực sự sẽ tồn tại mãi với thời gian. Mặc dù thị hiếu và ý thức nghệ thuật có thể thay đổi, những bài thơ của Thế Lữ viết ở giai đoạn đầu vẫn làm say mê người đọc, những vở kịch của ông vẫn tiếp tục được biểu diễn. Thế Lữ thực sự là một nghệ sĩ đích thực, là niềm tự hào của nền thi ca dân tộc qua mọi thời đại.
3. Giới thiệu về nhà thơ Thế Lữ và bài thơ Nhớ rừng, mẫu số 3:
Thế Lữ (1907 - 1989), tên khai sinh Nguyễn Thứ Lễ, quê ở Bắc Ninh (nay thuộc huyện Gia Lâm, Hà Nội), là nhà thơ đặc trưng của phong trào thơ mới. Với tâm hồn thơ dồi dào, lãng mạn, ông là mũi nhọn quan trọng thổi hồn mới vào thơ ca, đồng thời là biểu tượng chiến thắng của Thơ mới, 'đặt nền móng Thơ mới ở xứ này' (Hoài Thanh).
Ngoài sáng tác thơ, Thế Lữ còn là tác giả của truyện trinh thám, truyện kinh dị, và truyện đường rừng lãng mạn,... Sau đó, ông chuyển hướng sang sân khấu và đóng góp lớn trong việc phát triển ngành kịch nói Việt Nam. Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm 2000. Các tác phẩm nổi bật: Mấy vần thơ (thơ, 1935), Vàng và máu (truyện, 1934), Bên đường Thiên lôi (truyện, 1936), Lê Phong phóng viên (truyện, 1937),...
Thơ của ông chứa đựng tâm sự thời thế nhưng không mất đi tính mới mẻ, bi tráng. Bài thơ 'Nhớ rừng' trong tập 'Mấy vần thơ' được coi là tuyệt phẩm trong sự nghiệp của Thế Lữ và cũng là một trong những bài thơ xuất sắc nhất trong Thơ mới. Sự độc đáo của bài thơ nằm ở cả hình thức nghệ thuật và nội dung cảm xúc.
Về Nghệ thuật: Bài thơ sáng tác theo thể thơ tự do, mỗi câu tám chữ, gieo vần liền, vần bằng, vần trắc hoán vị liên tiếp tạo ra giọng thơ hùng vĩ và nhẹ nhàng. Ngắt nhịp linh hoạt, ngắn khi cần (đoạn 3), dài khi thấu hiểu (đoạn 2), tạo nên biểu cảm đa dạng từ sâu lắng, u buồn đến sôi nổi, thanh thoát. Ngôn ngữ sáng tạo, sinh động, gợi cảm với nhiều biện pháp tu từ, nhân hóa, ẩn dụ, tương phản, điệp ngữ. Hình ảnh phong phú, nhạc điệu độc đáo, và câu chữ táo bạo làm nổi bật thêm sức mạnh phi thường, như nhận định của Hoài Thanh.
Về nội dung: Khúc trường ca bi tráng của con hổ nhớ rừng xanh. Thế Lữ không chỉ hình dung hổ oai linh mà còn truyền đạt tâm trạng phong phú trong nỗi nhớ rừng sâu sắc của nó.
Sử dụng tương phản mềm mại suốt bài thơ, Thế Lữ vẽ nên khung cảnh tự nhiên sống động kết hợp với những ý thức sâu xa. Con hổ, biểu tượng chúa tể rừng xanh, kiêu hãnh trong quá khứ, bây giờ đang trải qua những thách thức của cuộc sống nhà tù. Tuy nhiên, nó vẫn giữ nguyên niềm tự hào và kiêu hãnh, phản kháng với thế giới hiện đại nhàm chán và nhà tù của nó.
Dù đối mặt với thế giới hiện tại, con hổ vẫn giữ vững vị thế oai linh của mình. Nó coi thường thế giới xung quanh và chỉ thấy con người là những 'ngạo mạn ngẩn ngơ', gấu là 'dở hơi', và báo là 'vô tư lự'. Chẳng có thứ gì xứng đáng với sự kiêu hãnh của nó ngoại trừ thế giới rừng xanh đẹp như tranh, nơi mà nó là chúa tể và những cảnh đẹp thiên nhiên là nguồn cảm hứng không ngừng.
Bề ngoài, con hổ như đánh mất hy vọng, chấp nhận tình trạng hiện tại: 'Ta nằm dài chờ ngày tháng trôi qua'. Nhưng thực chất, nó chứa đựng một khối căm hận sâu thẳm, niềm 'uất hận ngàn thâu'. Nó bị tước đi tự do nhưng không khuất phục, giữ vững niềm kiêu hãnh của vị chúa tể muôn loài. Trong tù hãm, nhục nhã, thể xác bị giam giữ, tâm hồn mãnh hổ vẫn reo vang giai điệu tình yêu và nhớ mong về rừng xanh. Tâm hồn nó vẫn khao khát tiếng gọi của tự do và rừng xanh. Điều này thể hiện sự từ chối sự thực tù túng, ngột ngạt và giả dối trong hiện tại một cách quả quyết.
Mượn lời con hổ nhớ rừng xanh, tác giả thể hiện sự uất hận của thế hệ và thời đại. Đó là sự phê phán thực tế xã hội khốn khổ, nhột nhạt. Một thực tế làm họ ghét bỏ, muốn thoát ly. Bài thơ là giọng nói của cái tôi, muốn giải phóng, phủ nhận hiện thực, và khẳng định bản thân. Nhớ rừng còn chứa đựng tình yêu nước thầm kín của người dân Việt Nam mất nước.
So với các nhà thơ khác cùng thời, Nhớ rừng của Thế Lữ không chỉ chán ghét thực tại, mà còn muốn thoát khỏi nó để tìm kiếm một thế giới tinh thần khác. Tuy nhiên, điểm khác biệt chính là sự chối bỏ và phản đối mạnh mẽ. Trong khi nhiều nhà thơ khác tìm kiếm sự thoát ly thông qua tình yêu, nỗi buồn, hoặc thiên nhiên, Nhớ rừng là bài thơ lớn về con người, trữ tình và lãng mạn. Đồng thời, nó là thông điệp yêu nước và kí ức về quá khứ hùng vĩ của dân tộc.
Nhớ rừng không chỉ là khao khát về thiên nhiên, tự do mà còn là lời chia tay cảm xúc với một thời đại huy hoàng. Tuy nhiên, bài thơ cũng là tuyên ngôn quyết liệt không hòa nhập với thế giới giả tạo, dù thời kỳ huy hoàng đã xa lạc.
"""""--KẾT THÚC"""""---
Chúng tôi đã đề xuất Giới thiệu về nhà thơ Thế Lữ và bài thơ Nhớ rừng để bạn chuẩn bị cho phần Cảm nhận về đoạn thơ sau: 'Nào đâu những đêm... mảnh mặt trời gay gắt' trong Nhớ rừng và phần Cảm nhận về hình tượng con hổ trong bài thơ Nhớ rừng để hiểu rõ hơn về nội dung này.