Gomphotheres là một loài voi cổ đại, chúng lần đầu tiên xuất hiện vào cuối Kỷ Eocene, khoảng 34 triệu năm trước.
Sau khi kỷ Phấn trắng kết thúc, khi khủng long tuyệt chủng, động vật có vú thời tiền sử bắt đầu phát triển và xuất hiện ngày càng nhiều. Trong Kỷ nguyên Eocene kéo dài từ 56 đến 34 triệu năm trước, những con vật khổng lồ giống như voi cổ đại bắt đầu lang thang qua đồng cỏ và rừng rậm. Mặc dù chúng có ngoại hình giống như người hậu duệ của chúng, nhưng loài voi cổ đại này lại có bốn chiếc ngà khổng lồ mà chúng sử dụng để tự vệ.

Gomphotheres lần đầu tiên xuất hiện vào cuối Kỷ Eocene, khoảng 34 triệu năm trước. Chúng sống qua thế Pleistocene và thế Holocene sớm. Người ta ước tính rằng loài động vật này đã tuyệt chủng cách đây khoảng 11.700 năm. Mặc dù chúng trông rất giống voi thời hiện đại nhưng thực ra chúng thuộc một họ khác và đã tuyệt chủng khi tổ tiên của loài voi hiện đại xuất hiện và tiếp tục tiến hóa.
Những sinh vật khổng lồ này sống ở đồng cỏ, rừng và đầm lầy. Chúng có thân hình to lớn hơn, với tỷ lệ cơ thể ngắn hơn so với voi hiện đại. Nếu bạn sống cách đây 12.000 năm, có thể bạn sẽ nhầm những con vật khổng lồ này với voi hiện đại.

Một điểm khác biệt đáng chú ý giữa voi hiện đại và gomphotheres là số lượng ngà. Voi hiện đại có hai chiếc ngà, thực chất là những chiếc răng kéo dài từ hàm trên xuống. Voi dùng ngà để ăn và tự vệ. Gomphotheres cũng có hai chiếc ngà trên nhưng thêm hai chiếc ngà kéo dài từ hàm dưới lên trên.
Hàm của chúng tương tự như voi hiện đại, nhưng nhỏ hơn về kích thước và số lượng răng. Khi những chiếc răng lớn hơn mọc lên, những chiếc răng nhỏ hơn sẽ di chuyển về phía trước của hàm. Gomphotheres được phân loại thành các nhóm như trilophodont và tetralophodont. Trilophodonts có ba lá răng trên mỗi hàm, trong khi tetralophodonts có bốn lá. Cấu trúc và chức năng của răng và hàm đóng vai trò quan trọng cho sự tồn tại của gomphothere và cung cấp nhiều thông tin cho các nhà nghiên cứu về cách chúng sinh sống.
Gomphotheres đã phân bố rộng rãi và có khả năng thích nghi với nhiều môi trường khác nhau. Các nhà khoa học đã tìm thấy bằng chứng chứng minh rằng chúng sống ở tất cả các châu lục ngoại trừ Nam Cực và Úc. Loài này chủ yếu sống ở châu Phi, châu Á và Bắc Mỹ, thường kiếm ăn trên đồng cỏ rộng lớn. Nhiều phân loài khác của gomphotheres cũng được phát hiện trên toàn cầu, mỗi phân loại thích nghi với môi trường và nhu cầu sống khác nhau.
Các môi trường đã thay đổi trong hàng triệu năm khi gomphothere di cư trên Trái Đất. Các loài động vật đã di cư, phát triển và khám phá lãnh thổ mới trong quá trình này.
Gomphotheres cũng thế, chúng di cư và sống ở Nam Mỹ vào đầu thế Pleistocene, khoảng 2,6 triệu năm trước thông qua eo đất Panama.

Không có nhiều thông tin về các loài động vật khác từng đe dọa gomphotheres. Do kích thước lớn của chúng, bất kỳ loài động vật nào muốn săn và giết gomphothere sẽ phải có kích thước lớn hơn, hoặc có răng, móng vuốt đủ dài và sắc để có thể làm tổn thương chúng.
Tuy nhiên có thể chắc chắn rằng một trong những nguy cơ chính đối với loài này là sự thay đổi môi trường sống ảnh hưởng đến thói quen ăn của chúng. Vì chúng chỉ ăn một số loại thực vật cụ thể, khi những loài này biến mất, gomphothere sẽ tuyệt chủng theo.
Gomphotheres cũng sống cùng với con người sơ khai. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy bằng chứng cho thấy bộ tộc người Clovis, một nhóm người săn bắt đầu tiên ở Bắc Mỹ, đã săn lùng và hạ gục gomphotheres.
Bộ lạc này tồn tại cách đây khoảng 13.390 năm và chủ động săn, giết và tiêu thụ gomphothere.
Các nhà khoa học đang khám phá thông tin mới về động vật có vú cổ xưa mỗi ngày, nhưng loài gomphothere hiện nay được biết đến bao gồm 11 chi gomphotheres:
- Blancotherium
- Gnathabelodon
- Gomphotherium
- Megabelodon
- Sinomastodon
- Rhynchotherium
- Cuvieronius
- Stegomastodon
- Haplomastodon
- Notiomastodon
- Eubelodon
Nguồn: Allthatsinteresting; Không tin được, ZME