
Hạc đàn còn được biết đến với nhiều tên gọi khác như đàn Harp, đàn Harpe, đàn hạc, không hầu. Đây là một loại nhạc cụ bộ dây với số lượng dây lớn như piano, từng rất phổ biến ở châu Phi, châu Âu, châu Mỹ, châu Á và là một trong những nhạc cụ có nguồn gốc lâu đời nhất trên thế giới. Trong một số nền văn hóa, đàn hạc được coi là biểu tượng của âm nhạc.
Nguồn gốc
Châu Âu

Theo truyền thuyết, hạc cầm được thiết kế từ một cây cung uốn cong với nhiều dây. Vào thời kỳ cổ đại, hạc cầm gắn liền với các câu chuyện thần thoại, nơi các thiên thần bay lượn, ôm đàn hạc và biểu diễn trong các cung điện lộng lẫy, để quý tộc chiêm ngưỡng.
Các đàn hạc cổ xưa nhất hiện còn dấu vết từ các di chỉ Sumer cổ ở miền nam Iraq. Đây là một trong những nhạc cụ cổ xưa nhất của nhân loại, có thể đã xuất hiện ở Ai Cập khoảng 6.000 năm trước Công nguyên, hoặc ít nhất là 4.000 năm trước Công nguyên trong thời kỳ Babylon và Lưỡng Hà. Các hình khắc trên lăng mộ Pharaoh Ramses III (1198-1166 Trước Công nguyên) đã ghi nhận sự hiện diện của hạc cầm. Đàn hạc cũng được tìm thấy trong các đồ vật chôn cất ở Iraq từ khoảng 2900 trước Công nguyên. Từ Trung Đông, hạc cầm theo dòng Hồi giáo lan rộng sang Bắc Phi và sau đó đến Tây Ban Nha vào thế kỷ 8. Từ đó, nó đã được giới thiệu vào châu Âu.
Châu Á

Tại Châu Á, người Trung Quốc sử dụng nhạc cụ không hầu, một loại nhạc cụ tương tự như hạc cầm, từ thời nhà Chu. Không hầu có thể đã biến mất vào thế kỷ 15 (thời nhà Minh), nhưng đã được phục hồi vào thế kỷ 20 dưới dạng đàn hạc đôi; phiên bản hiện đại của nhạc cụ này có nhiều điểm giống đàn hạc hòa nhạc phương Tây. Đàn không hầu đã có lịch sử hơn 2000 năm, nhưng ngoài dàn nhạc cung đình, nó không phổ biến trong dân gian. Ngày nay, không hầu Trung Quốc không chỉ có mặt trong dàn nhạc truyền thống mà còn trong dàn nhạc giao hưởng phương Tây (như đàn hạc).
Ngày xưa, đàn không hầu có hai loại: dạng nằm và dạng đứng với hai hàng dây. Trước đây, đàn không hầu có từ 7 đến 14 dây, hiện nay mỗi hàng dây có 36 dây, mỗi dây được gắn trên trụ hình chữ nhật của hộp đàn. Do hai hàng dây đồng âm, khi chơi các bản nhạc có giai điệu nhanh và âm rộng, dễ dàng diễn tấu vì có thể sử dụng cả hai tay. Không hầu cũng có thể được dùng để đệm nhạc với tầm âm vừa, một ưu điểm mà các nhạc cụ khác khó có được. Âm sắc của không hầu và đàn hạc phương Tây rất khác biệt.

Không hầu đã được du nhập vào Hàn Quốc với tên gọi gonghu (hangul: 공후; hanja: 箜篌) và cũng từng bị thất truyền ở Hàn. Ngày nay, người Hàn Quốc đã phục hồi đàn gonghu cho các nghi lễ cung đình, với ba loại chính:
- Sogonghu (hangul: 소공후; hanja: 小箜篌; âm Hán Việt: 'tiểu không hầu', tức 'đàn hạc nhỏ')
- Sugonghu (hangul: 수공후; hanja: 豎箜篌; 'thụ không hầu', tức 'đàn hạc đứng')
- Wagonghu (hangul: 와공후; hanja: 臥箜篌; 'ngọa không hầu', tức 'đàn hạc nằm')
Tại Nhật Bản, có nhạc cụ kudaragoto (百済琴/くだらごと; âm Hán Việt: 'Bách Tề cầm'), cũng được gọi là kugo (箜篌/くご; 'không hầu'). Nhạc cụ này thuộc dòng Tōgaku ('Đường nhạc' tức 'nhạc Đường') thời kỳ Nara và đã bị thất truyền vào thế kỷ 10. Sau đó, kugo đã được phục hồi. Sugawara Tomoko sử dụng kugo trong các buổi hòa tấu với nghệ sĩ Bill Campbell và được đề cử Giải thưởng âm nhạc độc lập cho album năm 2010 mang tên Along the Silk Road, bao gồm các tác phẩm viết mới và truyền thống cho kugo. Nhạc sĩ Mamoru Fujieda cũng đã soạn riêng các tác phẩm cho kugo.
Người Altai ở Mông Cổ có một loại đàn hạc tương tự gọi là hạc cầm Altai. Đàn này có thiết kế giống như đầu của con sơn dương với sừng cong, thân đàn nằm ngang. Đàn nhỏ có 6 dây và đàn lớn có 14 dây. Dây đàn được nối từ giữa sừng sơn dương xuống thân đàn.
Cấu tạo đặc trưng

Đàn hạc là loại đàn gảy, thường thấy trong dàn nhạc giao hưởng hoặc để đệm hát trong nhạc thính phòng. Giá của đàn hạc rất cao và việc chế tác một cây đàn đòi hỏi sự tinh xảo. Theo thần thoại Hy Lạp, đàn hạc được chế tạo bằng cách dùng ruột bò làm dây đàn và gắn vào khung gỗ.
Hạc cầm có nhiều kiểu dáng, kích thước và trọng lượng khác nhau, nhưng chủ yếu có 3 loại: loại hộp, loại cong và loại dây. Chiều cao của hạc cầm dao động từ 60 cm đến 180 cm, với số dây từ 22 đến 47. Loại nhỏ có thể để trên đùi khi chơi, trong khi loại lớn phải đặt trên mặt đất. Dây đàn hạc cầm được chế tạo từ gân, kẽm, ni lông hoặc hỗn hợp của chúng.
Âm thanh của hạc cầm tương tự như guitar nhưng giai điệu lại phong phú và mềm mại hơn. Nghệ sĩ thường kết hợp hạc cầm với sáo. Để học chơi, ngoài khả năng âm nhạc và đam mê, cần có người có thân hình cao, cánh tay dài, ngón tay khỏe và thịt tay chắc chắn (dùng đầu ngón tay để bấm dây, không phải móng tay như guitar).
Đàn không hầu đầu phượng (phượng thủ không hầu) được thiết kế dựa trên đàn không hầu đứng. Mặc dù có hình dạng tương tự đàn hạc phương Tây, nhưng khác biệt ở chỗ đàn không hầu có hai hàng dây, mỗi hàng 36 dây. Dây đàn được đỡ bởi con nhạn trên hộp đàn và cột đàn có chạm khắc đầu chim phượng hoàng, vì vậy loại đàn này được gọi là đàn Không Hầu đầu phượng, trong khi đàn hạc phương Tây chỉ có một hàng dây. Ngày xưa, dây không hầu làm bằng gân bò hoặc tơ tằm, còn hiện nay làm bằng ni lông bọc thép.
Âm sắc của đàn không hầu rất du dương và trong sáng, với âm vực rộng và khả năng biểu diễn phong phú. Nó không chỉ có thể chơi nhạc dân tộc Trung Quốc mà còn có thể chơi các bản nhạc của đàn hạc phương Tây. Do hai hàng dây đồng âm với nhau, nó cho phép gảy nhạc với giai điệu nhanh và âm rộng, dễ dàng chơi bằng cả hai tay và có thể dạo và đệm nhạc trong tầm âm vừa. Đàn không hầu còn đặc biệt với các kỹ thuật gảy như nhấn dây, trượt dây, vê dây và rung âm.
Một loại không hầu khác của Trung Quốc là loan cầm (弯琴) có hình dáng giống như một chiếc thuyền rồng. Hình dáng của nó rất giống với đàn Saung-gauk của Myanmar. Một biến thể khác của loan cầm là hạc cầm 4 dây, được tìm thấy trong bức tranh Phi thiên tán hoa ở hang Mạc Cao, tỉnh Đôn Hoàng, Trung Quốc.
- Lucia Bova, L'arpa moderna. La scrittura e la notazione, lo strumento e il repertorio dal '500 alla contemporaneità, lời tựa bởi Luis de Pablo, Suvini Zerboni, Milano, 2008. ISBN 978-88-900691-4-7
- 'The Anglo Saxon Harp', Spectrum, Tập 71, Số 2 (Tháng 4, 1996), trang 290–320.
- 'The Origins of the Clairsach or Irish Harp', Musical Times, Tập 53, Số 828 (Tháng 2, 1912), trang 89–92.
- Alasdair Ross cho rằng tất cả các hình vẽ đàn hạc Scotland đều được sao chép từ các bản vẽ nước ngoài chứ không phải từ thực tế, trong ''Harps of Their Owne Sorte'? A Reassessment of Pictish Chordophone Depictions', Cambrian Medieval Celtic Studies 36, Mùa đông 1998.
- Snyder's Medieval Art, ấn bản thứ 2, trang 32. Luttikhuizen và Verkerk.
- Courteau, Mona-Lynn. 'Harp'. Trong J. Shepherd, D. Horn, D. Laing, P. Oliver và P. Wicke (biên tập), The Continuum Encyclopedia of Popular Music of the World, Tập 2, 2003, trang 427–437.
- Montagu, Jeremy (2002). “Harp”. Trong Alison Latham (biên tập). The Oxford Companion to Music. London: Oxford University Press. trang 564. ISBN 0198662122. OCLC 59376677.
- Rensch, Roslyn (2007/1989). Harps and Harpists, ấn bản sửa đổi (2nd). Đại học Indiana. ISBN 0-253-34903-6.