
Hãy so sánh và phân tích vẻ đẹp của hai đoạn thơ dưới đây:
Đoạn 1:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Đoạn 2:
Những đường Việt Bắc của ta
Ðêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Ðèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miềm
Hoà Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên vui về
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
(Trích Việt Bắc – Sách Ngữ văn 12, Tập 1, NXBGD 2007)
Đoạn 1 thường được coi là bức tranh tứ bình của bài thơ Việt Bắc, còn đoạn 2 là bức tranh Việt Bắc ra trận. Hãy phân tích và so sánh vẻ đẹp của hai bức tranh ấy.
Dàn ý:
I. Mở bài: Giới thiệu chung
- Tố Hữu là biểu tượng của thơ ca cách mạng Việt Nam, bản sắc thơ của ông song hành cùng với công cuộc cách mạng. Thơ của ông là gương phản ánh mỗi bước tiến của cuộc đấu tranh. Tập thơ “Việt Bắc” là minh chứng rõ ràng cho sự kiên cường, hào hùng trong cuộc chiến chống Pháp kéo dài chín năm.
- Bài thơ “Việt Bắc” không chỉ là biểu tượng của tình yêu mà còn là bài ca hùng tráng về lịch sử, ca ngợi chiến công của dân tộc và khẳng định tinh thần đoàn kết, trung thành của con người.
- Bức tranh tứ bình và bức tranh Việt Bắc ra trận trong bài thơ “Việt Bắc” có những đặc điểm độc đáo.
II. Phân tích chi tiết
1. Bức tranh tứ bình
a. Câu 1,2: Lời gửi tình cảm
- Người ra đi hỏi người ở lại để khẳng định tình cảm của mình.
- Câu thơ đầu tiên không chỉ là sự hỏi han mà còn ẩn chứa thông điệp sâu sắc: dù không ở bên nhau nhưng lòng nhớ vẫn mãnh liệt, tế nhị và sâu đậm.
- Câu 2: tường minh hóa đối tượng của tình yêu. Hoa là biểu tượng của sắc đẹp tự nhiên tươi mới, còn người Việt Bắc là biểu tượng của vẻ đẹp tinh túy nhất trong cuộc sống. Tình yêu của họ hòa quyện với vẻ đẹp tự nhiên và tinh tế của con người Việt Bắc.
- Từ “nhớ” được lặp lại hai lần trong hai câu thơ, làm cho tâm trạng người đọc trở nên nặng nề hơn, tạo ra sự kích thích cảm xúc, làm rộng cánh cửa cho cảm xúc chủ đạo, là sự nhớ nhung sâu sắc và thấm đẫm.
b. Tiếp theo là 8 câu thơ
- Tám câu thơ được cấu thành từ 4 cặp lục bát, mỗi cặp xen kẽ một câu miêu tả về thiên nhiên và một câu miêu tả về con người, tạo nên bốn bức tranh tươi đẹp về cảnh vật bốn mùa ở Việt Bắc.
* Mùa đông
- Về phần thiên nhiên:
+ Mùa đông được thể hiện qua hai màu sắc chủ đạo: màu xanh sâu của núi rừng và màu đỏ tươi của hoa chuối khoe sắc nở rộ.
+ Mùa đông thường được miêu tả bằng cảm giác lạnh buốt, nhưng Tố Hữu đã sử dụng cảm nhận cách mạng để tạo ra sự tương phản. Trên nền xanh bao la của rừng núi, bất ngờ xuất hiện màu đỏ rực rỡ của hoa chuối như những ngọn đuốc giữa núi rừng. Màu đỏ tượng trưng cho sự ấm áp, lòng tin. Hình ảnh này kết hợp với ánh nắng ấm áp trong câu thơ thứ hai tạo nên bức tranh mùa đông ấm áp của Việt Bắc, nơi có Đảng và Bác Hồ, nơi đong đầy niềm tin và sức mạnh của dân tộc.
+ Bức tranh mùa đông ở Việt Bắc thể hiện quan điểm về cuộc sống và ánh sáng của nhà thơ cách mạng.
- Về phần con người:
+ Lựa chọn hình ảnh con người đứng trên đỉnh đèo không phải là ngẫu nhiên. Ánh nắng chiều chiếu vào lưỡi dao gài trên thắt lưng làm lóe sáng, tạo ra hình ảnh hai mặt trời đôi song song. Sự tương phản này tạo nên hình ảnh con người vững chắc, tự tin trên nền rừng rậm.
+ Vẻ đẹp của con người kỳ diệu, như sức mạnh từ trời xuống đất, đậm chất sử thi.
* Mùa xuân
- Về phần thiên nhiên:
+ Mùa xuân là lúc thiên nhiên khoác lên núi rừng tấm áo màu trắng tinh khiết của hoa mơ, làm cho núi rừng trở nên sặc sỡ hơn bao giờ hết.
+ Từ “trắng rừng” là một sáng tạo ngôn ngữ trong thơ của Tố Hữu. Chữ “trắng” ban đầu là tính từ nhưng ở đây đã được biến thành động từ, tạo ra cảm giác sự chuyển biến về màu sắc cùng với thời gian. Đọc giả có cảm giác như núi rừng Việt Bắc bỗng chốc sáng rực vì hoa mơ, thời gian dần dần đổi màu từ đông sang xuân.
=> Với màu trắng của hoa mơ, Tố Hữu đã tạo ra hình ảnh của sự tươi mới, sự sống động, một không gian mở rộng và thoải mái của Việt Bắc khi xuân về.
- Về phần con người:
+ Hành động: Việc đan nón chuốt từng sợi giang thể hiện phẩm chất chăm chỉ và tài năng của con người Việt Bắc. Họ trở thành nghệ sĩ trong lao động, tạo ra những chiếc nón đơn giản nhưng duyên dáng, phản ánh bản sắc văn hóa Việt Nam.
+ Ý thơ của họ còn lưu truyền tinh thần cách mạng. Họ đan những chiếc nón, mũ để tặng cho quân và dân ra hỏa tuyến. Đây là biểu tượng của một thời kỳ khó khăn nhưng vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
* Mùa hè
- Về phần thiên nhiên: Ve kêu, rừng phách đổ vàng
+ Bức tranh thiên nhiên mùa hè được mô tả bằng cả âm thanh và màu sắc.
+ Hai từ “đổ vàng” thể hiện sự biến đổi ba phương diện:
> Biến đổi không gian, âm thanh kích thích màu sắc. Chỉ trong khoảnh khắc, toàn bộ khu rừng biến thành màu vàng kỳ diệu.
> Biến đổi thời gian: màu vàng của rừng phách làm chuyển đổi từ mùa xuân sang mùa hè.
> Biến đổi cảm giác: từ âm thanh chuyển sang màu sắc để cảm nhận, từ việc nghe âm thanh sang việc nhìn màu sắc.
+ Từ “đổ” là một ý tưởng sáng tạo của Tố Hữu. Nghe như tiếng ve làm nền cho một bức tranh màu vàng của rừng phách khi mùa hạ về.
- Về phần con người:
+ Hình ảnh “cô em gái hái măng một mình” thể hiện vẻ đẹp của con người Việt Bắc, làm việc chăm chỉ và kiên nhẫn, đồng thời là biểu tượng của tình cảm trong lòng khi xa cách.
+ Hai từ “một mình” đẩy sâu hơn vào sự cô đơn trong nỗi nhớ khi ở xa nhau giữa miền ngược và miền xuôi.
* Mùa thu
- Về phần thiên nhiên:
+ Nếu ba mùa trước là cảnh ban ngày, thì mùa thu là bức tranh đêm trăng ở Việt Bắc.
+ Tứ thu mở ra không gian rộng lớn của núi rừng mùa thu dưới ánh trăng. “Trăng rọi” tạo ra hình ảnh ánh trăng soi sáng từ trên cao xuống núi rừng, gợi lên vẻ đẹp thanh bình, thơ mộng của núi rừng.
+ Khung cảnh thiên nhiên đêm thu cũng là không gian tâm tình cho cuộc chia ly, phù hợp với giai điệu buồn của người ra đi và người ở lại.
- Đối với con người: “Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
+ “Nhớ ai” là một câu hỏi, từ “ai” đề cập một cách mơ hồ, tạo ra cảm giác buồn bã trong nỗi nhớ.
+ Điều đặc biệt là: Tố Hữu đã tạo ra một cấu trúc hài hòa, bắt đầu với câu hỏi “Ta về mình có nhớ ta”, kết thúc với một câu hỏi mang câu trả lời. Cả ta và mình đều chia sẻ nỗi nhớ, cùng một tấm lòng son sắt lắng đọng.
+ Tình thủy chung: Chạm đến bản chất của dân tộc, nuôi dưỡng tình cảm với gốc rễ sâu xa, “uống nước nhớ nguồn”. Đây là vẻ đẹp cao quý trong lòng người Việt Nam.
2. Bức tranh Việt Bắc ra trận
a. Hình ảnh những con đường ra trận: (câu 1,2)
- Hai câu thơ “Những con đường Việt Bắc của chúng ta/ Đêm đêm như tiếng đất rung” tái hiện không khí của thời đại kháng chiến chống Pháp. Từ khắp nơi trong đất nước, đoàn quân cùng dân công hướng về mặt trận, đầy sức sống trong những ngày tổng tiến công.
- Cụm từ “những con đường Việt Bắc” không chỉ mô tả một không gian mở lớn, mà còn biểu tượng cho con đường cách mạng, con đường kháng chiến như Tố Hữu đã ca tụng “Đường cách mạng dài bao la theo chiến công”.
- Hình ảnh của những con đường Việt Bắc kết hợp với hai từ “của chúng ta” thể hiện tư thế kiêng nhẫn, tự tin, mạnh mẽ của quân và dân ta, đồng thời khẳng định Việt Bắc là biểu tượng của sự tự do với niềm kiêng nhẫn sâu sắc.
- Hình ảnh con đường ra trận được mô tả trong “đêm đêm” thể hiện sự liên tục, gợi lên hình ảnh của đoàn quân bền bỉ, không ngừng từ đêm này sang đêm khác.
- Hai từ “rầm rập” vừa tạo ra âm thanh, vừa mô tả được hình ảnh sự sôi động, náo nức và sức mạnh của quân dân ta.
- Câu thơ với sử dụng kỹ thuật so sánh “Đêm đêm như tiếng đất rung” kết hợp với nhịp thơ nhanh, mạnh, âm hưởng thơ tưng bừng rộn rã khiến ta cảm thấy như cả núi rừng đang rung lên bởi sức mạnh của con người. Sức mạnh con người được đo lường bằng thước đo sông núi.
b. Hình ảnh đoàn quân (câu 3,4)
- Hai câu thơ từ láy mang giá trị tạo hình, biểu cảm “điệp điệp”, “trùng trùng” đã miêu tả hình ảnh đoàn quân ra trận dài vô tận tựa như núi rừng trùng điệp, đông đảo, mạnh mẽ.
- Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan: Hình ảnh thơ kết hợp cảm hứng hiện thực và lãng mạn:
+ Đây là cảnh thực, người lính hành quân trong đêm có sao sáng dẫn đường, có thiên nhiên làm bạn.
+ Ý nghĩa tượng trưng: Cảm nhận như đất trời đang hành quân cùng người lính hay chính tầm vóc sừng sững của người lính vươn tới sao trời. Hình ảnh này ta từng gặp trong thơ Chính Hữu, nếu trăng trong thơ Chính Hữu biểu tượng cho khát vọng hòa bình thì ánh sao của Tố Hữu mang vẻ đẹp lí tưởng của niềm lạc quan chiến thắng. Từ đó khắc họa hình ảnh người lính anh hùng nhưng rất giản dị, lãng mạn.
+ Hình ảnh thơ còn khắc họa sức mạnh tư thế, vóc dáng của người lính sánh tựa sao trời. Đó là sức mạnh mang tầm vóc sử thi, là cảm hứng ngợi ca thường gặp trong thơ Tố Hữu.
c. Hình ảnh dân công (câu 5,6)
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay
- Hai câu thơ vẽ hình ảnh dân công san sẻ núi, vận chuyển lương thực, vũ khí ra chiến trường. Đây là bức tranh hoành tráng của cuộc chiến tranh nhân dân.
- Hình ảnh “đỏ đuốc từng đoàn” không chỉ gợi lên sự náo nhiệt, sôi động mà còn là biểu tượng của ngọn lửa nhiệt huyết dành cho lý tưởng quê hương, sẵn sàng chiến đấu vì Tổ quốc, cũng như là ngọn lửa ấm áp, lòng nghĩa của hậu phương dành cho tiền tuyến.
- Cách mô tả Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay lấy cảm hứng từ câu ca dao “trông cho chân cứng đá mềm”, thể hiện sức mạnh kỳ diệu của dân tộc ta, sức mạnh vượt trội hơn cả thiên nhiên. Chính sức mạnh đó đã tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy trên khắp năm châu, gây chấn động toàn cầu.
d. Hướng về tương lai, biểu tượng cho niềm tin chiến thắng (câu 7,8)
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha sáng như ánh bình minh mai sau
- Hình ảnh thơ bắt nguồn từ cảm xúc hiện thực, là cảnh những chiếc xe liên tục trải dài ra chiến trường, ánh đèn pha chiếu sáng xé tan bóng tối của núi rừng. Tố Hữu muốn tôn vinh sức mạnh của lực lượng cơ giới quân đội ta, từng trải qua những ngày tháng gian khó, mênh mông như bốn phương sương mù, nhưng giờ đây ánh sáng của đèn pha báo hiệu một sức mạnh mới.
- Biện pháp nghệ thuật đối lập giúp khẳng định niềm tin vào ngày mai.
- Hai câu thơ còn mang ý nghĩa tượng trưng, ẩn dụ:
+ Nghìn đêm sương dày: muốn nói đến những năm tháng đau thương, bị nô lệ dưới bóng đèn của thực dân Pháp và tay sai phong kiến.
+ Đèn pha rực sáng như hôm nay mai: là biểu tượng cho tương lai tỏa sáng, cho sự độc lập, tự do của dân tộc.
=> Hai câu thơ toả sáng niềm hy vọng, lòng tin mãnh liệt với sắc thái cách mạng lãng mạn đã khắc họa nên tượng đài của nước Việt Nam từ khổ đau đến hào hùng: Việt Nam từ máu lửa nổi dậy/ Lột xác, tỏa sáng rực rỡ
* Niềm vui chiến thắng (tiếp theo)
- Tố Hữu sử dụng cách diễn đạt độc đáo, biến hóa để diễn tả niềm vui chiến thắng phấn khích, hân hoan.
- Chất sử thi rõ ràng trong hình ảnh, từ ngữ phản ánh sức mạnh của tự nhiên vũ trụ, với nhịp điệu hào hùng của chiến thắng.
- Sự hiện diện của những danh lam thắng cảnh tôn vinh sức mạnh của dân tộc và những chiến công hào hùng.
Có nhớ ai trong lòng không?
Ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao-Lạng, nhớ qua Nhi Hà...
Tái hiện những chiến thắng ấy với niềm tự hào, là biểu hiện của lòng biết ơn đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc đã đoàn kết, hỗ trợ nhau.
- Hình ảnh toàn dân đứng lên:
Những con đường Việt Bắc của chúng ta
… Hãy vui lên Việt Bắc, Đèo Đè, Núi Hồng
Kết thúc đoạn thơ, tác giả cũng vẽ ra một bản đồ vui rộng lớn khắp đất nước thông báo chiến thắng:
Tin tức chiến thắng rộn ràng khắp nơi
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên hân hoan
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, Đèo Đè, Núi Hồng
Nhịp thơ dồn dập, vui tươi, náo nức cùng với sự xuất hiện của một chuỗi các địa danh khắp nơi kết nối với tin tức vui chiến thắng, là minh chứng cho tốc độ nhanh chóng của chiến thắng. Các từ vui về, vui từ, vui lên… tự nhiên đặt Việt Bắc vào trung tâm của niềm vui, từ Việt Bắc niềm vui lan tỏa ra, và từ mọi nơi tin vui trở về Việt Bắc. Chiến thắng đó lan rộng khắp cả nước, tạo nên ngày hội chiến thắng của toàn dân tộc ta.
- Câu thơ lục bát không chảy đi theo nhịp điệu êm dịu như tiếng ru mà chuyển sang nhịp hối hả, sôi động. Đó là nhịp hành quân như cơn bão, nhịp chiến thắng liên tiếp. Tâm trạng trữ tình đã chuyển sang tâm trạng sử thi hùng hồn.
=> Đoạn thơ sử dụng phong cách sử thi và cảm hứng lãng mạn. Đối với người Việt Bắc, Việt Bắc không chỉ có những tình cảm, lòng trung thành mà còn rất can đảm, kiên cường. Vì thế Việt Bắc không chỉ là bài ca tình yêu mà còn là bài ca anh hùng tràn ngập hy vọng, không chỉ là bản ballad mà còn là bản ca hùng biện của dân tộc.
3. So sánh
* Tương đồng:
- Cả hai đoạn thơ đều miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
=> Tình yêu đối với đất nước, quê hương của tác giả.
* Khác biệt:
- Bức tranh tứ bình mô tả vẻ đẹp trong thời hòa bình, chủ yếu sử dụng phong cách lãng mạn. Bức tranh Việt Bắc ra trận là biểu hiện của vẻ đẹp trong thời chiến, sử dụng phong cách sử thi và cảm hứng lãng mạn.
III. Tóm tắt kết luận:
- Tóm tắt lại vấn đề đã được nêu
Mẫu văn
Khi nhắc đến Việt Bắc, ta gợi lại nguồn cội của cách mạng, nơi mang trong mình những kỉ niệm sâu đậm của một thời kỳ gian khổ nhưng hào hùng, làm con tim ta bồi hồi xuyến xao. Dây nhớ, dây thương vẫn cứ quấn quýt, xoắn xuýt như lời gọi của trái tim yêu thương. Đúng như lời thi ca của Chế Lan Viên: 'Khi ta ở đất chỉ là nơi ở / Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn'. Đúng vậy! Việt Bắc đã làm cho tâm hồn ta hóa thành một dòng suối yêu thương trong thơ Tố Hữu, với những lời thơ như những giai điệu dịu dàng, cùng với hình ảnh những người dân với những kỷ niệm ân tình không bao giờ phai mờ, được thể hiện qua hai khổ thơ trên.
Khởi đầu của đoạn văn là hai câu thơ giới thiệu nội dung chung của nó: 'Ta về mình có nhớ ta / Ta về ta nhớ những hoa cùng người'. Câu thơ đầu tiên đặt ra một câu hỏi như một thách thức: 'Mình có nhớ ta', và câu thơ thứ hai là câu trả lời, với từ 'ta' lặp lại bốn lần, đi kèm với âm 'a' mở ra âm hưởng xa xôi, nồng nàn. Với Tố Hữu, người lính khi ra đi không chỉ nhớ đến những ngày tháng gian khổ 'bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng', mà còn nhớ đến vẻ đẹp tuyệt vời của hoa và con người. Ở đây, hoa biểu trưng cho vẻ đẹp tự nhiên của Việt Bắc. Còn con người là những người dân của Việt Bắc, với trang phục dân dã nhưng chứa đựng trong lòng họ là tình thân thiết. Hoa và con người kết hợp với nhau tạo nên một cảnh đẹp tươi mới, độc đáo của vùng đất này. Điều đó đã tạo nên một cấu trúc độc đáo cho đoạn văn. Trong bốn cặp lục bát còn lại, câu thứ sáu nhớ về hoa và cảnh, câu thứ tám nhớ về con người. Cảnh vật và con người trong mỗi câu thơ đều mang những đặc điểm riêng, hấp dẫn. Khi nói về mùa đông, ta thường nhớ đến cái lạnh buốt xương, cái u tối của những ngày mưa phùn gió bấc. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ Tố Hữu, mùa đông lại trở nên ấm áp và lạ lùng:
'Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
'Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng'
Điểm nhấn trên phông nền màu xanh rộng lớn của rừng, là màu sắc của hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa nhìn, những bông hoa tựa như những bó đuốc phát sáng rực rỡ tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa tương phản, vừa hòa hợp, vừa mang tính cổ điển và hiện đại. Màu 'đỏ tươi' - sắc đỏ nồng của hoa chuối nổi bật giữa màu xanh bao la của rừng, làm cho thiên nhiên ở Việt Bắc trở nên rạng rỡ, ấm áp và như mang trong mình một sức sống, xua đi sự hoang sơ, lạnh giá của rừng núi. Câu thơ khiến ta nhớ đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:
'Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ'
'Hồng liên trì đã tiễn mùi hương'
Từ liên tưởng đó, chúng ta thấy mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng tràn đầy sức sống của mùa hè thay vì lạnh lẽo hoang vu, bởi màu đỏ của hoa chuối như đang phát sáng từ giữa màu xanh của rừng núi. Cùng với sự lung linh của hoa chuối đó là con người của vùng chiến khu lên núi làm ruộng, trồng cây sản xuất ra nhiều lúa, khoai cung cấp cho kháng chiến. 'Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng'. Trước bức tranh bao la của thiên nhiên, con người trở nên vĩ đại, hùng vĩ hơn. Nhà thơ không chỉ mô tả gương mặt, mà còn chụp lấy một khía cạnh thần kỳ nhất. Đó là ánh mặt trời chiếu sáng trên lưỡi rìu của rừng núi. Ở đó, câu thơ không chỉ mang ngôn ngữ thơ mà còn có cả ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một điểm sáng giữa cảnh vật. Con người đó đã xuất hiện ở một vị trí đẹp nhất - 'đèo cao'. Con người đang thống trị đỉnh cao, thống trị núi rừng, tự do 'Núi rừng đây là của chúng ta / Trời xanh đây là của chúng ta'. Đó là tư thế tự do, kiêu hãnh và vững vàng: Ở giữa núi và nắng, giữa trời xanh bao la và rừng xanh mênh mông. Con người đó đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông ở Việt Bắc.
Đông qua, xuân lại tới. Khi nhắc đến mùa xuân, chúng ta nghĩ ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của hàng trăm loài đang thức dậy sau một mùa đông dài. Mùa xuân ở Việt Bắc cũng vậy:
'Ngày xuân, hoa mơ khoe sắc trắng khắp rừng',
'Nhớ người đan nón, từng sợi giang',
Mùa xuân tại Việt Bắc được phủ một tấm áo trắng dịu dàng, trong trẻo, trong sáng của hoa mơ nở khắp rừng: 'Ngày xuân, hoa mơ khoe sắc trắng khắp rừng'. 'Sắc trắng' được sử dụng như một động từ đặc biệt để nhấn mạnh màu sắc, màu trắng dường như tràn ngập tất cả mọi màu xanh của lá, làm cho toàn bộ khu rừng bừng sáng bởi sắc trắng mơ màng, êm dịu, của hoa mơ. Động từ 'khoe' thể hiện sự sống mạnh mẽ của mùa xuân và sự phát triển dồi dào của hoa mơ. Mùa xuân trở nên tươi mới hơn với hình ảnh con người tham gia vào hoạt động 'từng sợi giang'. Con người được thể hiện vẻ đẹp tự nhiên trong các công việc hàng ngày. Từ 'từng sợi' và hình ảnh trong thơ mô tả bàn tay của con người lao động: cẩn thận, tỉ mỉ, khéo léo, tài năng, nhanh nhẹn, chăm chỉ, điều đó cũng là phẩm chất đặc biệt của con người Việt Bắc.
Mùa hè đến với âm thanh vang vọng của tiếng ve, bức tranh của Việt Bắc trở nên sống động hơn bao giờ hết:
'Ve kêu, rừng phách rực vàng',
'Nhớ cô em gái hái măng một mình',
Khi tiếng ve kêu, rừng phách chuyển sang màu vàng. Động từ 'đổ' mạnh mẽ, diễn tả sự vàng rực của hoa phách đầu hè. Màu vàng của cây phách làm bừng sáng cả suối ngàn, khiến ánh nắng hè và tiếng ve kêu trở nên rực rỡ. Đây là một bức tranh tươi sáng được vẽ bằng hoài niệm, lung linh ánh sáng và âm thanh. Tố Hữu không chỉ giỏi trong việc miêu tả vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có khả năng miêu tả sự biến đổi của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ, ta nhận ra sự thay đổi sống động của thời gian: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách chuyển sang màu vàng rực rỡ. Đây là một biểu hiện đặc biệt của văn hóa dân tộc.
Trong cảnh thiên nhiên sáng rực và rộn ràng ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cẩn thận đi hái búp măng để cung cấp cho bộ đội kháng chiến: 'Nhớ cô em gái hái măng một mình'. Hình ảnh hái măng một mình không chỉ tạo ra cảm giác cô đơn mà còn tượng trưng cho sự trữ tình, thơ mộng và gần gũi. Cô gái này được miêu tả là vất vả và yêu thương. Đằng sau hình ảnh đó là biết bao cảm xúc và sự trân trọng của tác giả.
'Rừng thu trăng rọi hòa bình,
Nhớ âm nhạc ân tình của ai,'
Trong không gian bao la, ánh trăng tự do và hòa bình sáng rạng, làm cho niềm vui lan tỏa khắp núi rừng, bản làng Việt Bắc. Mùa thu với ánh trăng từng chiếc cửa sổ trong thơ Bác, nhưng không phải là chuông báo thắng trận mà là tiếng hát sôi động, biểu tượng cho lòng thủy chung và tình cảm sâu nặng của dân tộc. Đó chính là tiếng hát của Việt Bắc, của lòng yêu thương mãnh liệt sau mười lăm năm gắn bó.
Dưới đây là một đoạn trích sống động, hào hùng về sức mạnh tiến công của quân dân ta:
'Con đường Việt Bắc của chúng ta'
'.........'
'Hãy vui mừng lên Việt Bắc, qua đèo De, qua núi Hồng…'
Nhà thơ tập trung vào việc tái hiện không khí hào hùng trong giai đoạn thứ ba của cuộc kháng chiến, khi sức mạnh và đoàn kết của chúng ta đang tăng lên. Thông qua hồi ức, nhà thơ đưa người đọc vào cảnh chiến đấu của Việt Bắc trong không gian rộng lớn của núi rừng, với những hoạt động sôi động, hình ảnh và âm thanh sống động, làm lay động lòng người. Ánh sáng cách mạng tan đi vẻ u ám của rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đoạn thơ này mang dáng vẻ của một sử thi hiện đại, đầy anh hùng ca.
Tố Hữu miêu tả một cách chân thực và sống động cảnh chiến khu Việt Bắc trong mùa chiến dịch qua hình ảnh những con đường vang lên tiếng bước chân của bộ đội, dân công, ánh sáng lấp lánh từ lửa đuốc và đèn pha của các đoàn xe.
Trong cuộc sống bình thường, ban đêm thường là thời điểm mọi thứ nghỉ ngơi, nhưng trong chiến tranh, đêm thường là thời điểm bắt đầu của các trận đánh, các chiến dịch lớn. Câu thơ 'Những đường Việt Bắc của ta, Đêm đêm rầm rập như là đất rung' thể hiện ý thức của người dân đối với đất nước và niềm tự hào về tính bất khả xâm phạm của vùng căn cứ địa kháng chiến.
Trên các con đường ra hỏa tuyến, bộ đội và dân công bước đi với súng đạn, gánh nặng, và tinh thần hăng hái. Các từ như rầm rập, điệp điệp, trùng trùng được sử dụng để miêu tả không khí tự tin, hồ hởi và mạnh mẽ của quân dân. Hình ảnh 'Đêm đêm rầm rập như là đất rung' mô tả quy mô lớn của các trận đánh sắp diễn ra.
Ngoài những hình ảnh rộng lớn, trong bức tranh kháng chiến bằng thơ này còn có những hình ảnh chiều cao, như 'Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan'. Ánh sao không chỉ là hình ảnh thực tế mà còn là biểu tượng cho niềm tin và lí tưởng cách mạng, đồng thời thể hiện sự thống nhất giữa con người với thiên nhiên trong thời điểm lịch sử đặc biệt.
Tuy miêu tả cảnh đêm ở Việt Bắc, nhưng bức tranh không thiếu các chi tiết về ánh sáng. Ngoài ánh sáng xanh của sao trời, còn có ánh sáng đỏ của lửa đuốc, của ngọn lửa bay lượn, của đèn pha sáng rực... Hai câu thơ 'Dân công đỏ đuốc từng đoàn, Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay' vẽ nên một cảnh tượng rực rỡ và sôi động bằng nét bút mạnh mẽ. Cách diễn đạt 'bước chân nát đá' mô tả sức mạnh vượt qua mọi khó khăn của những người lính trên con đường ra hỏa tuyến. Những bước chân mạnh mẽ đó đã làm cho núi rừng bừng tỉnh. Màn đêm u ám với sương dày được xua tan bởi ánh sáng từ đèn pha, gợi nhớ về chiến thắng sắp đến. Hình ảnh so sánh trong câu 'Đèn pha sáng như ánh sáng của ngày mai' không chỉ mạnh mẽ mà còn thể hiện niềm hân hoan trước chiến thắng của quân đội ta trong cuộc kháng chiến.
Tin vui chiến thắng trên mọi miền đất nước
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui vẻ hân hoan
Niềm vui lan tỏa từ Đồng Tháp, An Khê
Niềm vui lan tỏa khắp Việt Bắc, từ đèo De đến núi Hồng...
Tin về chiến thắng từ các chiến trường khắp nước liên tục tràn về chiến khu Việt Bắc. Những lời ca về niềm vui, từng miền đất, vui lên, không chỉ tạo ra không khí phấn khích mà còn thể hiện rằng chiến khu Việt Bắc là trung tâm của cuộc kháng chiến và niềm vui chiến thắng từ khắp nơi đổ về đó, rồi lan tỏa khắp mọi nẻo đường.
Có điều đáng chú ý là sự xuất hiện của nhiều địa danh trong thơ. Trong thơ kháng chiến, có nhiều bài nhắc tên các địa phương gắn liền với lịch sử. Tuy nhiên, cách Tố Hữu sử dụng địa danh khác. Nếu như một số nhà thơ chú ý đến những địa danh xa xôi, hoang dã, thì Tố Hữu lại quan tâm đến những địa danh nổi tiếng về chiến công, gợi lên sự tự hào và xúc động trong lòng người.
Hai đoạn thơ đều mô tả vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc, thể hiện tình yêu đất nước, quê hương của tác giả. Tuy nhiên, chúng có điểm khác biệt. Đoạn thơ về vẻ đẹp trong hòa bình chủ yếu sử dụng bút pháp lãng mạn, trong khi đoạn thơ về Việt Bắc ra trận sử dụng khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Viết về Việt Bắc, Tố Hữu không chỉ viết về một vùng đất mà còn là biểu tượng cho sức mạnh kháng chiến, linh hồn cách mạng và ý chí của toàn dân tộc. Bài thơ Việt Bắc đã tìm được vẻ đẹp trong thành công, thể hiện lí tưởng, cách mạng và truyền thống tinh thần của dân tộc, với tình cảm say mê nồng nhiệt, rung động của một trái tim yêu nước.