Heo nhà | |
---|---|
Lợn bạch | |
Tình trạng bảo tồn | |
Đã thuần hóa | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Artiodactyla |
Họ (familia) | Suidae |
Chi (genus) | Sus |
Loài (species) | S. scrofa Linnaeus, 1758 |
Phân loài (subspecies) | S. s. domesticus
|
Danh pháp ba phần | |
Sus scrofa domesticus Erxleben, 1777 | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Lợn nhà (theo phương ngữ Miền Bắc) hay heo nhà (theo phương ngữ Miền Trung, Miền Nam) là một giống loài được thuần hóa từ loài lợn rừng, được chăn nuôi để cung cấp thịt. Hầu hết lợn nhà có lớp lông mỏng trên bề mặt da. Lợn nhà thường được cho rằng là một phân loài từ tổ tiên hoang dã của chúng là lợn rừng, trong trường hợp này chúng được đặt tên sinh học là Sus scrofa domesticus. Một số nhà phân loại học cho rằng lợn nhà là một loài riêng và gọi tên chúng là Sus domesticus, và lợn rừng là S. scrofa. Lợn rừng đã quần hợp với con người cách đây 13.000–12.700 năm. Những con lợn nhà thoát khỏi nơi nuôi dưỡng đã trở về với cuộc sống hoang dã ở một số nơi trên thế giới (ví dụ, New Zealand) và gây ra một số hiểm họa môi trường như là loài gây hại.
Phân loại
Lợn thuần hóa hầu hết được xem là một phân loài của loài tổ tiên hoang dã của chúng, Sus scrofa theo Carl Linnaeus năm 1758, nên trong trường hợp này nó có tên chính thức là Sus scrofa domesticus. Năm 1777, Johann Christian Polycarp Erxleben xếp lợn thuần hóa là một loài độc lập với loài hoang dã, và được đặt tên là Sus domesticus, hiện vẫn được một số nhà phân loại học sử dụng.
Nguồn gốc
Các dấu vết khảo cổ cho thấy lợn (heo) đã được thuần hóa từ loài hoang dã từ rất sớm, khoảng 13.000–12.700 năm trước Công nguyên ở Cận Đông, trong thung lũng sông Tiger, chúng được quản lý dưới dạng hoang dã tương tự như cách chúng được chăn nuôi ngày nay tại New Guinea. Các loài lợn (heo) khác đã được xác định sớm hơn vào năm 11.400 trước Công nguyên tại Síp, có lẽ chúng được nhập từ đất liền, thuần hóa ở đó. Cũng có quá trình thuần hóa riêng biệt xảy ra ở Trung Quốc cách đây 8000 năm.
Trước đây, các nhà khảo cổ dựa vào các di tích khảo cổ (chủ yếu là hộp sọ) đã cho rằng lợn đã được thuần hóa vào khoảng 9000 năm trước ở khu vực hiện nay là Đông Thổ Nhĩ Kỳ hoặc khoảng thời gian tương tự ở Trung Quốc.
Theo một nghiên cứu do các nhà di truyền học Mỹ và Thụy Điển thực hiện, trong đó phân tích phân bố và đồng dạng gen của các giống lợn (700 con) trên toàn cầu, tổ tiên của lợn ngày nay được xác định là lợn rừng và quê hương của chúng ở Đông Nam Á ngày nay. Sau khi được thuần hóa ở Đông Nam Á, lợn theo con người đến các vùng khác của lục địa Á-Âu và các đảo Thái Bình Dương. Lợn tiếp tục được thuần hóa nhiều lần tại Trung Quốc, Cận Đông và châu Âu.
Một nghiên cứu di truyền đã phân tích gen của các giống lợn thuộc các quần đảo Thái Bình Dương và đặc biệt là lợn không lông ở Vanuatu. Các nhà nghiên cứu từ Úc và Mỹ cho biết rằng, lợn tại các quần đảo này cũng xuất phát và được thuần hóa từ Đông Nam Á (đặc biệt là từ Việt Nam) khoảng 3000 năm trước. Sau đó, chúng theo con người di cư ra khỏi lục địa và đến các quần đảo như Vanuatu và Lưu Cầu. Ngoài ra, các giống lợn tại các quần đảo này cũng có dấu vết gen rất giống với lợn ở châu Âu.
Ước tính về thời điểm thuần hóa và di cư của lợn được đề cập phù hợp với các khám phá khảo cổ ở Việt Nam. Các bằng chứng này cho thấy nghề nuôi lợn ở Việt Nam đã phát triển mạnh từ thời kỳ Hùng Vương. Các khám phá khảo cổ thuộc thời kỳ hậu Đồ Đá Mới (khoảng từ 8000 đến 3000 năm trước) ở Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Hoa Lộc phát hiện nhiều xương của các loài vật nhà nuôi như lợn, chó, trâu bò, gà, vịt... Tại Đồng Đậu, tỷ lệ xương lợn trong tầng văn hóa cao hơn so với xương lợn rừng và các loài gia cầm.
Tên gọi
Phương ngữ miền Bắc dùng từ 'lợn' trong khi miền Trung và Nam Bộ dùng từ 'heo'.
Tiếng Việt còn có các từ gọi riêng khác như:
Lợn giống hay heo nọc: Lợn đực được sử dụng để sinh sản.
Lợn sữa hay heo sữa: Lợn con dưới 1 tháng tuổi, trước khi bị cai sữa.
Lợn nái hay heo nái: Lợn cái nuôi dùng cho việc sinh sản.
Lợn sề hay heo sề: Lợn nái đã sinh đẻ nhiều lần.
Ngành chăn nuôi
Sản lượng lợn năm 2007 | |
(triệu) | |
Trung Quốc | 425,6 |
Hoa Kỳ | 61,7 |
Brasil | 35,9 |
Tổng thế giới | 918,3 |
Nguồn: FAO (FAO) |
Ở một số quốc gia phát triển và đang phát triển, lợn được thuần hóa là loài bản địa thường được nuôi thả hoặc trong chuồng. Ở một số vùng, lợn được thả để tìm kiếm thức ăn trong rừng và thường có người trông coi. Trong các quốc gia công nghiệp, nuôi lợn đã chuyển từ việc nuôi truyền thống trong chuồng trại sang hình thức nuôi công nghiệp, mang lại chi phí sản xuất thấp nhưng hiệu suất cao.
Thịt heo
Thịt heo chủ yếu được sử dụng để sản xuất thịt. Các sản phẩm từ thịt lợn như xúc xích, lạp xưởng, jambon. Đầu heo có thể được sử dụng để làm dưa da đầu heo. Gan, huyết (huyết thường và huyết hậu) và các bộ phận nội tạng khác cũng được sử dụng làm thực phẩm. Một số tôn giáo như Do Thái và Hồi giáo cấm ăn thịt lợn.
Hình ảnh
Chú thích
Tìm hiểu thêm
- Nhóm Chuyên gia Lợn và Heo Nọc (1996). Sus scrofa. Sách Đỏ 2006. IUCN 2006. Truy cập ngày 12 tháng 5 năm 2006.
- Chính sách AVMA về Chăm sóc Lợn Cái Mang Thai Lưu trữ 2009-05-14 tại Wayback Machine
- Đánh giá Khoa học về Phúc lợi Lợn Cái Khô được Nuôi trong Các Bộ Trang Bị Riêng lẻ - tháng 3 năm 2009 Lưu trữ 2009-05-14 tại Wayback Machine
Các liên kết bên ngoài
- Giới thiệu về nuôi lợn Lưu trữ 2010-01-25 tại Wayback Machine
- JJ Genetics Lưu trữ 2016-11-12 tại Wayback Machine, nhà nuôi lợn con sơ sinh
- Hướng dẫn học tập về Lợn Lưu trữ 2007-12-02 tại Wayback Machine từ UC Davis
- Hiệp hội Lợn Anh Quốc
- Quá trình giết mổ lợn
- Chăm sóc Lợn Lưu trữ 2009-12-27 tại Wayback Machine