Chi Lợn | |
---|---|
Khoảng thời gian tồn tại: Pleistocen sớm tới nay | |
Lợn râu Borneo (Sus barbatus) | |
Phân loại khoa học | |
Vực: | Eukaryota |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Chordata |
nhánh: | Mammaliaformes |
Lớp: | Mammalia |
Bộ: | Artiodactyla |
Họ: | Suidae |
Phân họ: | Suinae |
Chi: | Sus Linnaeus, 1758 |
Loài điển hình | |
Sus scrofa Linnaeus, 1758 | |
Các loài | |
Xem bài |
Heo (hay Heo theo phương ngữ miền Nam của tiếng Việt) là một chi động vật móng guốc có nguồn gốc ở đại lục Á-Âu được gộp nhóm tổng thể với danh pháp khoa học là Sus, thuộc họ Lợn (Suidae). Lợn rừng đã được thuần hóa và được nuôi như là một dạng gia súc để lấy thịt, mỡ cũng như da. Các sợi lông cứng của chúng còn được sử dụng để làm một số loại bàn chải, da có thể dùng để sản xuất bóng bầu dục. Ngoài ra, phân của lợn nhà cũng được dùng làm phân chuồng để cải tạo đất.
Đặc điểm
Heo là các loài động vật ăn tạp, chúng ăn cả thức ăn có nguồn gốc động và thực vật cũng như thức ăn thừa của con người. Trong điều kiện hoang dã, chúng là các động vật chuyên đào bới, tức là luôn dũi đất để tìm kiếm thức ăn. Lợn là động vật rất dễ huấn luyện, vì thế cùng với đặc tính đào bới và khứu giác rất nhạy của chúng nên ở một số nơi người ta còn dùng chúng để tìm nấm, đặc biệt là ở châu Âu. Ngoài ra, người ta còn nuôi heo mọi (một dạng của lợn ỉ Việt Nam) để làm động vật cảnh, đặc biệt là ở Mỹ.
Một đàn heo con thông thường có từ 6 đến 12 con. Tuy nhiên, trong điều kiện nuôi nhốt, thỉnh thoảng người ta thấy hiện tượng heo mẹ ăn thịt các con sơ sinh của nó, có lẽ là do thiếu chất. Heo có 44 răng, mõm và tai lớn, chân có 4 ngón, 2 ngón giữa lớn hơn và có lông cứng. Thời kỳ mang thai của heo trung bình là 114 ngày.
Lợn không có tuyến tiết mồ hôi, do đó chúng cần tìm những nơi mát mẻ hoặc ẩm ướt như các nguồn nước, vũng bùn v.v để tránh bị nóng quá trong thời tiết nóng. Chúng cũng sử dụng bùn để bảo vệ da khỏi tác động của ánh nắng mạnh.
Phân bố
Với khoảng một tỷ cá thể sống bất cứ lúc nào, lợn nhà là một trong những loài động vật có vú nhiều nhất trên thế giới.
Tổ tiên của lợn nhà là lợn rừng, là một trong những động vật có vú nhiều và phân bố rộng nhất. Nhiều phân loài tự nhiên phân bố gần như toàn cầu từ Ireland và Ấn Độ đến Nhật Bản và phía bắc đến Siberia.
Từ lâu bị cô lập với những con lợn khác trên nhiều hòn đảo của Indonesia, Malaysia và Philippines, lợn đã phát triển thành nhiều loài khác nhau, bao gồm lợn rừng, lợn râu và lợn hoang đảo. Con người đã đưa lợn vào Úc, Bắc Mỹ và Nam Mỹ, và nhiều hòn đảo khác.
Thực phẩm
Lợn là loài ăn tạp, tức là chúng ăn cả thực vật và động vật. Trong tự nhiên, chúng chủ yếu ăn lá, rễ, quả và hoa, ngoài ra còn bao gồm một số côn trùng và cá. Lợn nhà thường được cho ăn ngô và bột đậu nành kết hợp với các loại vitamin và khoáng chất bổ sung. Theo truyền thống, chúng được nuôi tại các trang trại sữa, vì chúng có thể tiêu thụ sữa dư thừa và váng từ phô mai và bơ. Lợn trưởng thành có thể uống ba đến năm gallon nước mỗi ngày. Khi chúng được nuôi như thú cưng, chế độ ăn tối ưu bao gồm chủ yếu rau sống, mặc dù có thể bao gồm cả thức ăn viên nhỏ.
Các loài
Giống lợn rừng
- Sus Sus barbatusLợn râu; Malaysia, Indonesia
- Sus bucculentus†: Lợn rừng Đông Dương
- Sus cebifrons: Lợn rừng Visayas
- Sus celebensis: Lợn rừng Celebes
- Sus daelius: Lợn rừng Poulter
- Sus falconeri†
- Sus habeoncosus Lợn rừng Malaysia
- Sus heureni Lợn rừng Flores
- Sus hysudricus†
- Sus philippensis: Lợn rừng Philippines
- Sus salvanius Lợn rừng lùn, lợn rừng còi; đông bắc Ấn Độ, Himalaya
- Sus scrofa (còn gọi là S. domesticus) Lợn nhà, lợn lòi, lợn rừng; châu Âu, châu Á
- Sus strozzi†
- Sus timoriensis Lợn rừng Timor
- Sus verrucosus Lợn rừng Java, Indonesia, Philippines
Danh sách các giống lợn nuôi
- Lợn Móng Cái
- Lợn Ba Xuyên
- Lợn Yorkshire
- Lợn Landrace
- Lợn Mường Khương
- Lợn Thuộc Nhiêu
- Lợn ỉ
- Heo mọi
Danh sách các giống lai
Giống lợn nhà Tamworth thường được lai ghép với lợn rừng để tạo ra giống lợn được gọi là 'lợn thời kỳ đồ sắt', chúng tương tự như lợn nhà nguyên thủy. Lợn con mới sinh này giống như lợn rừng non. 'Lợn thời kỳ đồ sắt' là loài vật rất thu hút (vì tính hiếu kỳ, tò mò) tại các trang trại. Lợn lai như vậy giống lợn nhà hơn lợn rừng, nhưng khó huấn luyện hơn và thường được sử dụng để sản xuất thịt cho xúc xích. Các giống lợn nhà khác cũng được lai với lợn rừng để sản xuất thịt ít mỡ hơn so với thịt lợn nhà.
Trong cuốn sách The Variation Of Animals And Plants Under Domestication, Charles Darwin đã viết: Lợn rừng châu Âu và lợn nhà Trung Quốc có sự khác biệt rõ rệt: Ngài F. Darwin đã cho một con lợn nái Trung Quốc giao phối với lợn rừng đực Alpine, đã được thuần hóa một phần, nhưng các con lợn con, dù có nửa máu thuần hóa, lại rất hoang dã khi nuôi nhốt và không dễ dàng ăn các loại thức ăn như các con lợn Anh thông thường.
Các tên gọi trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt, có nhiều cách để gọi các loại lợn khác nhau, chủ yếu là áp dụng cho các loài lợn đã được thuần hóa (lợn nhà):
- Lợn nái hay heo nái - Lợn cái nuôi để sinh sản lợn con
- Lợn sề - Lợn nái già
- Lợn bột hay heo sữa - Lợn con đang bú mẹ
- Lợn hạch - Lợn đực đã bị thiến
- Lợn ỉ - Một giống lợn Việt Nam, có mõm ngắn, lưng võng và bụng sệ với lớp da màu đen hoặc xám.
- Lợn lang hay heo bông - Lợn lông đốm đen-trắng
- Lợn mọi - Một dạng lợn ỉ, phát triển chậm, thường được nuôi làm thú cưng
- Lợn lòi - Tên gọi khác của lợn rừng
- Heo nọc - Lợn đực dùng để phối giống
Những từ này vẫn được sử dụng cho cả lợn rừng (dù có nuôi hay không).
Mối quan hệ với con người
Lợn nhà, đặc biệt là các giống nhỏ, thường được nuôi làm thú cưng. Lợn nhà là loài vật nuôi phổ biến; các sản phẩm thu được bao gồm thịt (gọi là thịt lợn), da và lông được sử dụng để làm bàn chải. Nhờ khả năng tìm kiếm thức ăn và khứu giác tốt, chúng được sử dụng để tìm nấm ở nhiều nước châu Âu. Cả lợn rừng và lợn hoang thường bị săn bắn.
Các sợi lông ngắn, cứng và thô của lợn đã từng được sử dụng rộng rãi trong việc làm cọ vẽ. Vào năm 1946, Chính phủ Úc đã khởi động Chiến dịch lông lợn. Vào tháng 5 năm 1946, để đáp ứng nhu cầu lông lợn cho cọ vẽ sơn nhà trong thời kỳ xây dựng bùng nổ sau Thế chiến II, Không quân Hoàng gia Úc (RAAF) đã nhập khẩu 28 tấn lông lợn từ Trung Quốc, nguồn cung cấp duy nhất vào thời điểm đó.
Thực phẩm
Thịt lợn được bày bán ở Việt Nam dưới nhiều tên gọi như thịt nạc, thịt mông, thịt ba chỉ. Chân lợn được bán dưới tên chân giò. Đầu lợn, còn gọi là thủ lợn - trước đây chỉ được dành cho tầng lớp thượng lưu ở nhiều nơi. Các cơ quan nội tạng của lợn như tim, gan, lòng non, lòng già, dạ dày, cật v.v. cũng được bày bán. Máu lợn được sử dụng làm tiết canh. Các món ăn từ phương Tây cũng được phổ biến như thịt lợn muối, giăm bông thịt lợn, pa tê gan lợn v.v. Một điểm cần lưu ý là người theo Hồi giáo và Do Thái không ăn thịt lợn vì coi lợn là động vật không sạch sẽ.
Chăm sóc sức khỏe của con người
Da người rất giống với da lợn, do đó da lợn đã được sử dụng trong nhiều nghiên cứu tiền lâm sàng. Ngoài việc sử dụng trong nghiên cứu y học và thử nghiệm thuốc, những tiến bộ trong chăm sóc sức khỏe con người đã tạo ra một phương pháp sử dụng lợn nhà để cấy ghép dị hợp cho con người.
Văn hóa
Tôn giáo và tín ngưỡng
- Trong thời kỳ Hy Lạp cổ đại, lợn được dùng để hiến tế cho nữ thần Demeter và là động vật được nữ thần này yêu thích. Lễ hiến tế Eleusis thường bắt đầu bằng việc dâng hiến con lợn. Lợn cũng là một trong 12 con vật tượng trưng cho chu kỳ 12 năm của Địa Chi trong các tính toán của người Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên v.v., liên quan đến Can-Chi. Nó liên quan chặt chẽ đến địa chi Hợi. Người tin vào chiêm tinh học Trung Hoa thường gắn liền con vật với các đặc điểm và tính cách cá nhân. Xem thêm: Hợi. Người Hồi giáo bị cấm ăn thịt lợn nhưng vẫn có thể ăn khi đối mặt với sự đói khát và không có thực phẩm khác theo kinh Qur’an. Người Do Thái cũng bị cấm ăn thịt lợn theo luật Kashrut. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu kể một câu chuyện ngụ ngôn về đứa con trai hoang đàng. Sau khi tiêu tiền hết, cậu ta phải làm người nuôi lợn để mong ước có thể ăn thức ăn của lợn mà không ai cho. Cũng trong Phúc Âm, Chúa Giêsu thực hiện một phép màu khi đuổi con quỷ ra khỏi con người và để nó đi vào một đàn lợn, sau đó chúng chạy xuống vực và chết đuối.
Lợn và con người
- Lợn đôi khi được so sánh với con người. Winston Churchill đã nói rằng: 'Con chó nhìn lên người ta. Con mèo nhìn xuống người ta. Còn con lợn coi người ta là bằng bạn bè'. Tại Hoa Kỳ, một số trường học từ cấp tiểu học đến đại học có các biểu tượng là lợn hoặc tượng tự như lợn. Đặc biệt là Đại học Arkansas có biểu tượng là một con lợn rừng (Sus scrofa) cho đội thể thao của trường. Lợn cũng xuất hiện trong nhiều truyện cổ tích, chẳng hạn như trong tác phẩm thiên sử Odyssey của Homer, nơi mà nữ thần Circe biến thủy thủ của Odysseus thành lợn. Trư Bát Giới, một nhân vật trong Tây du ký của Trung Quốc, là một vị thần trên Thiên Đình với hình dạng nửa người nửa lợn. Trong nhiều nền văn hóa (ngoại trừ người theo đạo Hồi thường không ăn thịt lợn), lợn là món không thể thiếu trong các nghi lễ cúng kiến hoặc các lễ hội làng, thủ lợn (đầu heo) thường dành cho người cao tuổi nhất hoặc người có vị trí cao nhất. Trong lục súc tranh công, có một câu thơ cổ Việt Nam viết: 'Việc quan, hôn, tang, tế, hết thảy cũng đều lấy heo làm trước'.
- Các món ăn từ thịt lợn muối xông khói
Chú thích và ghi chú
Các liên kết bên ngoài
Những loài thuộc bộ Artiodactyla (bộ Guốc chẵn) còn tồn tại |
---|