Sống trong cuộc đời không thể tránh khỏi cái quy luật của sự sống và cái kết thúc. Người ta thường nói chết là kết thúc. Nhưng có những cái chết không tạo nên dấu vết, còn có những cái chết để lại dấu ấn vĩnh cửu. Những người anh hùng của Cần Giuộc đã chọn cái chết đích thực: “Tận dụng nước non để trả nợ, danh tiếng trải khắp sáu tỉnh ai cũng khen ngợi. Xây dựng mộ tại miếu để thờ, tiếng tên mãi mãi vang vọng qua các thế hệ. Có thể nói toàn bộ bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bản hát của những người thất thế nhưng vẫn kiên cường (Phạm Văn Đồng).
Năm 1859, sau khi chiếm Gia Định, thực dân Pháp tiếp tục mở rộng sự xâm lược ra ba tỉnh miền Đông Nam Bộ. Vào tháng 12 năm 1861, Pháp xâm lược ba xứ Cần Giuộc, Tân An, Gò Công. Hai ngày sau, người dân ba xứ đã tổ chức cuộc kháng chiến, tấn công trại lính Pháp, đốt hỏa nhà của người Pháp, giết chết một quan viên Pháp và một số binh sĩ Pháp. Người dân hi sinh khoảng 15 người. Chiến thắng không lớn nhưng nó làm rung động lòng người dân yêu nước Việt Nam, khích lệ họ tiếp tục bảo vệ Tổ quốc. Đó là lý do Nguyễn Đình Chiểu viết bài văn tế để thể hiện sự tiếc thương và ca ngợi tinh thần hi sinh của những người nông dân Cần Giuộc. Tác phẩm đã làm xao động tận sâu trong tâm hồn của người Việt Nam yêu nước. Nhà thơ Mai Am đã viết:
Điếu văn tam phục trụng đê hồi
Nghị phách từ phong tận khả ai.
Nghĩa là, khi đọc bài văn điếu ba lần, trong lòng rộn ràng không thể kiềm chế được, tình yêu quê hương và lòng dũng cảm trong từng dòng văn hùng biện thật đáng trách nhiệm.
Hình ảnh của người nông dân Cần Giuộc là hình ảnh nổi bật giữa những suy tư, suy ngẫm về cuộc chiến đấu của những người anh hùng Cần Giuộc. Đây cũng là hình tượng trung tâm của tác phẩm. Nó đã ghi dấu vào lịch sử văn học dân tộc với một bức tượng đài không thể phai nhạt về hình ảnh của những người anh hùng áo vải với ý chí đánh giặc cứu nước.
Theo bố cục của bài văn tế, chúng ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu và làm sáng tỏ những nét đẹp của người nông dân Cần Giuộc trong cuộc chiến đấu chống lại Pháp.
Ở những câu đầu, Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện lại lịch sử khốc liệt, hùng vĩ: một bên là sự xâm lược của thực dân Pháp với toàn bộ sức mạnh áp đảo về vũ khí (súng giặc rộng lớn), một bên là cuộc chiến đấu chống lại sự xâm lược của quân Pháp của nhân dân ta với sức mạnh vững vàng (lòng dân vĩ đại). Người nông dân Cần Giuộc, dù chỉ là những người nông dân hiền lành, luôn sống với công việc, với cuộc sống nghèo khó, chưa từng quen với việc sử dụng ngựa, chưa từng tham gia các cuộc huấn luyện quân sự. Mặc dù vậy, khi giặc tới, họ đã trở thành những anh hùng dũng mãnh. Nguyễn Đình Chiểu đã khéo léo nhấn mạnh vào tinh thần tự giác:
“Ai dám yêu cầu, ai dám bắt buộc, lần này tôi sẽ dốc hết sức mình để chống lại; không có lựa chọn nào khác, cuộc này tôi sẽ ra tay dũng cảm như hổ.”
Ở đây, bút pháp hiện thực kết hợp hoàn hảo với bút pháp trữ tình. Vừa tái hiện chân thực cuộc sống con người trong một thời điểm quan trọng nhất, lại vừa bộc lộ sâu sắc niềm trân trọng tự hào lẫn sự cảm phục của tác giả đối với những người nghĩa sĩ ở Cần Giuộc.
Hành động tự giác tham gia vào hàng ngũ chiến sĩ chống lại Pháp đã thể hiện thái độ vô cùng cống hiến, trách nhiệm với số phận của đất nước từ phía những người nghĩa sĩ tại Cần Giuộc. Nhớ lại những dòng ca dao xưa 'Lính thú đời xưa', họ cũng là những nông dân nhưng bị bắt buộc phải tham gia vào các cuộc chiến tranh không có ý nghĩa, do đó thái độ của họ khác biệt rất nhiều:
Trống vang đánh mê say liên tục.
Bước chân rờn rợn như mưa nước mắt.
Ở đây, mặc dù đội quân nghĩa binh tại Cần Giuộc chỉ được hình thành trong vòng hai ngày trước khi tập kích đồn quân Pháp. Chỉ trong hai ngày đó, trong tình cảnh hoàn toàn tự lực, không có sự giúp đỡ từ triều đình, họ thiếu hụt mọi thứ, nhưng họ vẫn đầy gan dạ.
Mười tám người võ sĩ tài năng, không đợi luyện tập nhiều, đã sẵn sàng chiến đấu trong chín chục trận đánh, không cần phải chờ đợi.
Những kẻ tấn công, những người phản công, làm cho tâm hồn của kẻ địch chìm đắm trong sợ hãi; nhóm lính trước, bọn đội sau, không quan tâm sự mạnh mẽ của khẩu súng, khẩu đại bác.
Sức mạnh của những người nghĩa quân không chỉ nằm trong sức mạnh vũ khí mà còn nằm trong tinh thần quyết tâm. Họ đã dũng cảm đối mặt với sự đe dọa của vũ khí sắt thép, chống lại quân thù có súng và đại bác. Tinh thần quyết tâm đã biến họ thành những chiến binh dũng mãnh, không sợ hãi trước những kẻ tấn công và những người phản công. Họ tiến thẳng về phía kẻ thù như chẳng có gì để ngăn cản: Vượt qua hàng rào, coi đối thủ như không, xông vào cửa như không màng đến nguy hiểm. Hai từ này cũng được lặp lại ở câu mười ba (đốt nhà thờ và giết quan hai) để nhấn mạnh sự đối lập giữa hai phe, đồng thời tôn vinh tinh thần kiên định và tự tin vào sức mạnh công bằng của họ.
Nguyễn Đình Chiểu đã tôn vinh những nông dân anh hùng bằng những hình ảnh rực rỡ và những từ văn trang trọng, nhưng ông không giấu đi sự đau đớn. Bài văn còn là lời thương tiếc, là tiếng khóc than của Đồ Chiểu trước thất bại và cái chết của những người nông dân nghĩa quân ở Cần Giuộc. Cái chết của họ làm xúc động cả đất trời, cỏ cây và con người.
Oh không, thôi rồi!
Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rằm; đồn Lang Sa một khác dặng trả hờn, tủi phận bạc trôi theo dòng nước đổ. Đau đớn bấy Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều; não nùng thay! Vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ.
Cái bi tráng bao trùm lên cả đoạn thơ. Nhưng cái bi ở đây không phải là cái thảm mà là bi tráng. Đây là nỗi đau đớn vì Tổ quốc, vì nhân dân. Đau mà không khiến người ta nản lòng, thối chí, khi mà giục giã mọi người đứng dậy hiên ngang. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại. Nhiều nghĩa quân đã phải ngã xuống, nhưng chết vinh còn hơn sống nhục: Thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ. Chết như thế là để lại tấm gương chói lọi, có sức động viên lớn đối với cuộc chiến đấu sẽ còn tiếp tục.
Có thể nói, dù đã ngã xuống, nhưng hình ảnh người nông dân giết giặc vẫn mãi ngời sáng. Đó chính là những trái tim ngời sáng trong cát, đế lại tiếng thơm muôn đời.
Cất lên những tiếng khóc này, Nguyễn Đình Chiểu muốn khẳng định đây là cái tang chung của mọi người, của dân tộc. Vì vậy có bi mà không có lụy. Cái bi thì thăm thẳm, nỗi đau đầy cảm hứng trữ tình lên đến tột đinh, tạo nên những câu văn vật vã: mẹ già ngồi khóc trẻ, vợ yếu chạy tìm chồng. Đây không còn là văn mà là lệ. Phải có tài, có tình và một tinh thần dân tộc, một nhận thức đúng đắn xem mũi tên lịch sử đang đi về đâu. Điều này Nguyễn Đình Chiểu hiểu rõ và rất tâm huyết.
Như vậy, viết về hình ảnh người nông dân đánh giặc, Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa họ ở ba nét chủ yếu. Thứ nhất, hình ảnh người nông dân chân chất, hiền lành quanh năm chỉ biết sống và làm việc với cày cuốc, ruộng đồng. Thứ hai, đó là tinh thần yêu nước căm giặc sâu sắc đã thôi thúc họ trở thành những chiến binh dũng cảm, vô tận sẵn sàng xả thân vì nghĩa. Thứ ba, mặc dù đã ngã xuống nhưng họ vẫn là những biểu tượng đẹp về hình ảnh những anh hùng thất thế mà vẫn hiên ngang, sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc...
Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được coi là một tác phẩm văn học xuất sắc không chỉ của Nguyễn Đình Chiểu mà còn của văn học Việt Nam thời Trung đại. Sử dụng bút pháp trữ tình kết hợp một cách tinh tế với bút pháp hiện thực, bằng ngôn từ giản dị nhưng sâu lắng, bài văn đã tái hiện một cách chân thực và đầy cảm xúc cả một thời kỳ đau thương nhưng đầy lòng dũng cảm của dân tộc, đồng thời tạo dựng nên một tượng đài vô cùng độc đáo trong lịch sử văn học thời Trung đại về những người nông dân nghĩa quân chống lại kẻ thù ngoại xâm.
Du lịch bằng Mytour