Ý thức chủ đề
1. Bắt đầu
- Tổng quan về nhà văn Lý Bạch (những đặc điểm chính về tiểu sử, phong cách sáng tác…)
- Giới thiệu bài thơ “Vọng Lư sơn bộc bố” (hoàn cảnh ra đời, tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật…)
2. Phần thân bài: phân tích tác phẩm để hiểu về vẻ đẹp của thác nước Lư qua tâm hồn nhà thơ Lý Bạch.
a. Đỉnh núi Hương Lô
- Vị trí: quan sát từ xa để thưởng ngoạn cảnh thác nước.
⇒ Nhìn tổng quan, bao quát.
- Động từ “sinh”: nảy nở, mọc lên, qua đó thấy ánh mặt trời xuất hiện như chủ thể làm cho mọi vật sinh sôi, nảy nở.
- Đỉnh núi Hương Lô được mô tả dưới ánh nắng mặt trời chiếu rọi, làn hơi nước tạo ra những tia khói màu tím rực rỡ, kỳ ảo, đó là đặc trưng của đỉnh núi Hương Lô.
⇒ Câu thơ đầu tạo nền, khung cảnh huyền bí, tuyệt vời của cảnh vật.
b. Thác núi Lư
- Động từ “quải” (treo) biến cảnh vật từ tĩnh sang động: nhìn từ xa, đỉnh núi là khói mịt mù, chân núi là dòng sông chảy, giữa là thác nước treo lơ lửng như dải lụa trắng rủ xuống tĩnh lặng.
- Với hai động từ “phi”, “lưu” cảnh vật từ tĩnh chuyển sang động. Thác nước được miêu tả một cách rõ ràng, qua đó thấy núi cao và dốc đứng.
- “Tam thiên xích” là một số liệu kỳ vĩ, làm tăng thêm sức mạnh, tốc độ và quyền uy của dòng thác
- So sánh, lối diễn đạt phóng đại: thác nước – dải Ngân Hà, thể hiện sự mạnh mẽ, vĩ đại của thiên nhiên
⇒ Thác nước Lư hiện lên đẹp, vĩ đại và mạnh mẽ. Điều này thể hiện tình yêu thiên nhiên và một phần tính cách mạnh mẽ, hùng dũng của tác giả.
=> Tính chất cảnh vật được mô tả cho thấy Lý Bạch là nhà thơ có tình yêu sâu đậm, sự hấp dẫn mãnh liệt từ thiên nhiên cùng với tâm hồn lãng mạn, bay bổng, biểu hiện ước vọng mạnh mẽ về ý nghĩa của cuộc sống.
3. Kết luận
- Tóm tắt giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ:
+ Nội dung: cảnh thác nước Lư hùng vĩ, huyền bí và tình yêu thiên nhiên, tính cách mạnh mẽ, hùng dũng của tác giả.
+ Nghệ thuật: hình ảnh huyền bí, sử dụng nhiều động từ, so sánh và phóng đại.
- Cảm nhận cá nhân về bài thơ: bài thơ thể hiện rõ phong cách sáng tác của Lý Bạch.
Bài mẫu
Nếu như một thời độc giả hồ nghi tiên sinh Tản Đà được Ngọc Hoàng đầy xuống hạ giới để thực hiện sứ mệnh trời giao. Thì chúng ta chẳng có gì bất ngờ khi rất nhiều người cho rằng đầu thế kỉ thứ VIII - đời nhà Đường có một ông tiên thơ Lý Bạch được phái xuống trần gian. Do vậy thơ của ông mang phong cách “tiên” vừa phóng khoáng, lãng mạn lại kỳ vĩ tráng lệ. Chất thơ ấy thể hiện sâu sắc qua bài Vọng Lư sơn bộc bố.
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên.
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên Phi lưu trực há tam thiên xích Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lô khói tía bay
Xa trông dòng thác trước sông này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây
(Tương Như dịch)
Nhan đề bài thơ là vọng (nhìn từ xa) hơn nữa lại là dao khan (trông từ xa). Từ đó ta thấy cảnh thác núi Lư sơn thật hùng vĩ, hoành tráng, mỹ lệ. Tác giả chọn vị trí từ xa để bao quát cảnh vật, đồng thời cảnh thác nước Lư sơn hiện ra vừa thực, vừa ảo lung linh sinh sắc:
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
(Nắng rọi Hương Lô khói, tía bay)
Núi Lư là một ngọn núi cao, quanh năm mây mù bao phủ. Tác giả dùng hình ảnh ví von đặc biệt: ngọn núi được ví với Lô Hương giữa đất trời, mây bay chập chờn trên đỉnh Lô Hương. Đã thế tác giả lại khắc hoạ Lô Hương trong một ngày nắng đẹp.
Mặt trời phản chiếu vào Hương Lô sinh làn khói tía. Vì sao vậy? Khói thì màu trắng, mà tử yên là làn khói khá tươi đẹp, màu khói gợi sự mơ mộng, suy tư. Đến câu thơ thứ hai dòng thác hiện ra uyển chuyển:
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
(Xa trông dòng thác trước sông này)
Từ xa quan sát, thác nước như dải lụa trắng xoá mềm mại treo lên giữa lưng chừng núi và dòng sông. Trên thực tế núi thì cao, nước đổ thẳng xuống, và đương nhiên dòng thác sẽ không thể dội thẳng đứng được mà nó mềm mại như dải lụa được treo lên, mà lại treo lơ lửng. Ai có thể treo được một dòng thác? Đọc đến đây ta không khỏi ngỡ ngàng khi nhận thấy trên đỉnh núi Hương Lô mây bay rực rỡ, nghi ngút khói hương. Từ trong chính chỗ đó phun ra dòng thác trắng xóa bay xuống. Lạ kì thay thác chảy mà như lụa bay lơ lửng trước mắt nhà thơ. Từ quải được xem như là nhãn tự của câu thơ khiến dòng thác kỳ vĩ hơn lung linh hơn.
Phi lưu trực há tam thiên xích
(Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước)
Bằng những thanh bằng - bằng, trắc - trắc trong cụm từ (phi lưu trực há), ta cảm thấy như dòng thác lướt nhẹ như những thanh bằng. Ngọn thác cao vút đổ xuống ầm ầm bên sườn núi dựng đứng. Vậy thì tiếng thác chảy, bọt nước sẽ tạo thành màn sương và những âm thanh ào ạt, tiếng nước đổ khiến ta cảm thấy là có thật, nhưng làn khói sương mờ mờ ảo ảo ấy tạo thành bức tranh huyễn hoặc. Vì vậy khiến tác giả hồ nghi:
Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên
(Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây)
Có nhiều lúc người ta đang chứng kiến một sự thực nhưng lại không tin vào mắt mình. Cái lý trí bị lấn át bởi tình cảm. Trong hoàn cảnh này cũng vậy, dòng thác trước mắt nhà thơ là sản phẩm của sự phối hợp giữa thực và ảo, cái tỉnh và cái mơ, cõi trần gian và nơi thượng giới.
Ngỡ là tức là bản thân tác giả biết rằng nó không phải thế nhưng vẫn muốn tin là thế. Cảnh đẹp đã chắp cánh làm cho tác giả nghĩ đến dòng sông của thần thoại. Một dòng nước dội xuống từ ba ngàn thước, mà ngỡ như dòng sông Ngân rơi tựa chín tầng mây. Đây là hình ảnh đẹp nhất trong bài thơ. Trí tưởng tượng tuyệt vời, ngôn ngữ thơ ca đã nâng ngọn bút và cảm hứng lãng mạn thần tiên lên đến tuyệt đỉnh mới tạo bức tranh đẹp đến như vậy.
Cùng đề tài này, cùng tả dòng thác Lư sơn, một nhà thơ Đường khác Từ Tử Ngưng đã viết:
Hư không lạc tuyền thiên nhẫn trực
Lôi bôn nhập giang bất tạm tức
Thiên cổ trường như bạch luyện phi
Nhất điều giới pháp thanh sơn sắc.
Rõ ràng khi so sánh dòng thác trong hai bài thơ này ta thấy rằng dòng thác Lư sơn trong bài thơ của Lý Bạch kỳ vĩ huyền ảo và thơ mộng hơn nhiều. Hay nói cho đúng hơn không còn vần thơ nào tả được hay hơn Lý Bạch.
Trong đôi mắt thi nhân, cảnh vật khoáng đạt đẹp đẽ biết bao. Với bút pháp điêu luyện hồn thơ bay bổng, tấm lòng say đắm, trí tưởng tượng diệu kỳ và sự sáng tạo độc đáo, tác giả đã dựng nên bức tranh về dòng thác với muôn ngàn sắc màu làm cho người đọc không khỏi bất ngờ và nhớ mãi.