
Mỗi tác phẩm văn học là một chỉnh thể của nội dung và hình thức. Hai yếu tố đó có mối quan hệ tương giao mật thiết và có những chuẩn mực đánh giá riêng. Nhận xét về yếu tố hình thức, sách Văn học 9 tập 2 có viết: 'Hình thức hay là hình thức sáng tạo, sinh động, phù hợp nhất với nội dung, có sức biểu hiện nội dung hùng hồn nhất, gây được ấn tượng sâu sắc nhất'. Điều đó được thể hiện qua mỗi chỉnh thể tác phẩm văn học. Và với bài thơ sau cũng vậy:
Ánh Trăng
-Nguyễn Duy-
“Hồi nhỏ sống với đồng
…
Đủ cho ta giật mình”
Nội dung và hình thức là hai phương diện cơ bản thông nhất không thể tách rời của các tác phẩm văn học. Trong đó, nội dung tác phẩm là hiện thực cuộc sống được phản ánh trong sự cảm nhận, suy ngẫm và đánh giá của nhà văn. Hình thức là phương thức tồn tại của nội dung. Đó là câu tạo gồm nhiều yếu tố phụ thuộc lẫn nhau và phụ thuộc vào nội dung tác phẩm như kết cấu, thể loại, các phương tiện tu từ, biện pháp tu từ,... Song cần lưu ý rằng hình thức không phải là số cộng đơn giản của các thủ pháp và phương tiện nghệ thuật. Trong tính chỉnh thể, hình thức của văn bản nghệ thuật có nghĩa là hình thức cảm nhận đời sống, là cách tự bộc lộ của nội dung tác phẩm. Bởi vậy với tư cách là hình thức của một tác phẩm văn học, một hình thức hay là hình thức có sự tinh tế, độc đáo trong việc vận dụng các yếu tố nội tại (kết cấu, thể loại, phương tiện - biện pháp tu từ,...) đồng thời thể hiện thành công nhất nội dung tư tưởng tác phẩm: 'Hình thức hay là hình thức sáng tạo, sinh động, phù hợp nhất với nội dung, có sức biểu hiện nội dung hùng hồn nhất, gây được ấn tượng sâu sắc nhất'.
Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có một hình thức biểu hiện hay và đẹp.
Bài thơ ra đời năm 1978, đất nước đã thống nhất được ba năm. Là một nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ, Nguyễn Duy đã đi qua những năm tháng gian lao nhất của dân tộc, đã sống với nhiều cuộc đời, nhiều cảm xúc... Chiến tranh đi qua, ông không vui vẻ, bằng lòng với những gì có được mà luôn trăn trở suy ngẫm về cuộc đời.
Cũng như Tố Hữu trong “Việt Bắc”, ngày rời Thủ đô gió ngàn về với Thủ đô cờ và hoa từng đau đáu:
“Nhà cao còn nhớ núi đồi nữa chăng?
…
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng cuối rừng?”
Với Nguyễn Duy, những ân tình xưa cũ trong kháng chiến là những điều không dễ gì quên được. Tình đồng đội gắn bó, tình quân dân cả nước “bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng” là những mảng kí ức thiêng liêng tưởng chẳng bao giờ quên được... Thế nhưng, hòa bình lập lại, về với đời thường, với những toan tính bon chen, những ấm cúng tiện nghi người ta dễ quên đi hôm qua gian khó. Cứ mải miết với vòng đời cuộn xoáy để chợt một ngày nhận ra, một ngày nhớ lại hôm qua ta khẽ rùng mình... Theo cảm xúc ấy, “Ánh trăng” ra đời như một lời nhắc nhờ chính mình, nhắc nhở người đọc hãy biết sống trọn vẹn nghĩa tình với những kí ức thiêng liêng sâu thẳm của đời mình.
Bài thơ mang tên “Ánh trăng” và ánh trăng cũng là hình ảnh thơ độc đáo xuyên suốt bài thơ. Đó trở thành biểu tượng của những kỉ niệm chân thật, hồn nhiên:
Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
Trong kỷ niệm chiến tranh dày dạn ở rừng
Ánh trăng đã trở thành ký ức thân thiết”
Trong sự gắn bó với thiên nhiên
hồn nhiên như cây cỏ
ngỡ không bao giờ quên
trái tim còn nhớ vầng trăng tình nghĩa
Trăng hòa nhập vào “đồng”, “sông”, “bể” trong một tương tác hài hòa, trở thành người bạn thân của tuổi thơ. Và trong những thời gian chiến tranh, trăng liên kết với cuộc sống của người lính, trở thành một phần không thể thiếu của kỷ niệm tri kỷ. Đó là những kỷ niệm sâu sắc khi mỗi đêm ngắm trăng đều nhớ về quê hương, cha mẹ, người yêu... Những ước mơ tươi sáng của ngày chiến thắng cũng gắn bó chặt chẽ với vầng trăng. Tất cả những tình cảm đó đều chân thành, giản dị và tự nhiên “ngỡ không bao giờ quên” như vầng trăng đầy nghĩa tình thân thiết “trái tim còn nhớ vầng trăng tình nghĩa”. Tuy nhiên:
“Sau khi quay trở lại thành phố
đã quen với ánh sáng điện và ánh sáng từ gương
vầng trăng qua khe cửa
như người xa lạ vượt qua con đường”.
Cuộc sống hiện đại với môi trường kinh tế thị trường và tiện ích công nghệ đã làm nhạt nhòa ánh sáng êm đềm của vầng trăng. Vầng trăng tri kỷ, tình nghĩa của quá khứ giờ đây đối diện một vầng trăng “xa lạ” của hiện tại. Sự đối lập này phản ánh những thay đổi trong tình cảm và tri giác của con người, vầng trăng của hiện tại cũng trở thành một biểu tượng. Trăng “xa lạ” cũng có nghĩa những kỷ niệm ngọt ngào của quá khứ dần phai nhạt, mờ nhạt. Chúng bị che lấp dần bởi những lợi ích vật chất và danh vọng của cuộc sống hiện đại.
Nhưng cuộc sống hiện đại luôn chứa đựng những điều không biết trước. Trong khoảnh khắc đó, nó đã tự bộc lộ sự yếu đuối và thiếu sót:
Đèn điện bất ngờ tắt
Phòng tối om bóng
vội vã mở cửa sổ
và vầng trăng đột ngột tròn
Đây là một khổ thơ quan trọng trong bài, đó là một bước ngoặt quan trọng của cảm xúc, nó làm rõ chủ đề tư tưởng của bài thơ. Khi ánh đèn điện tắt, không gian trở nên tối tăm và ngột ngạt. Đó là lúc con người bắt đầu suy nghĩ về sự tự nhiên như một phương án thoát khỏi. “Vội vã mở cửa sổ” với hy vọng được hít thở không khí trong lành của bầu trời, nhưng họ nhận được nhiều hơn thế. Vầng trăng vẫn sáng chói đúng lúc, đem lại ánh sáng bất thường. Sự bình dị của vầng trăng gợi cho con người những cảm xúc mạnh mẽ. Từng từ “vội vã”, “đột ngột” mô tả trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, bất ngờ. Có điều gì đó như một tiếng kinh hãi, lo lắng trong hình ảnh “vội vã mở cửa sổ”. Vầng trăng tròn đang đứng đó, chờ đợi để đem lại ánh sáng vào thời điểm cần thiết. Sự bình yên và đẹp đẽ của đồng, sông, bể, rừng vẫn còn nguyên vẹn. Chỉ có điều liệu con người có nhận ra hay không mà thôi. Và đó là lúc, trong cái khoảnh khắc “thình lình” đó, kỷ niệm tình nghĩa từng đắm chìm trong sự “rưng rưng”, xúc động của con người:
Ngước mặt lên nhìn mặt trăng, những gì rưng rưng như đồng, như bể, như sông, như rừng. Đối diện với trăng cũng là đối diện với chính mình, với con người hiện tại và cả với quá khứ. Vầng trăng mang ý nghĩa biểu tượng. Mặt trăng đối diện với mặt người, mặt trăng cũng là mặt người, là quá khứ đang hiện hữu trong thực tại, trăng là tri kỷ, kỷ niệm thân thiết của quá khứ...
Trích từ: Mytour