Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò sông Đà.
Đọc bài văn mẫu về Hình tượng người lái đò trong bài tùy bút Người lái đò Sông Đà của Nguyễn Tuân để hiểu sâu hơn về người lao động đặc biệt này.
I. Tổ chức Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà một cách tổng quan
1. Bắt đầu bài:
- Giới thiệu tác giả và tác phẩm.
- Thông tin về hình tượng người lái đò sông Đà.
2. Phần chính:
a) Tiểu sử, hình dáng và nghề nghiệp:
- Lịch sử: Một người lái đò với tuổi tác trên 70, tên không rõ, quê quán tại 'ngã tư sông sát tỉnh'.
=> Hình ảnh phản ánh sự phổ biến, quen thuộc của người lao động trong cuộc sống hàng ngày.
- Nghề nghiệp:
+ 'Thời Tây, tàu…ông chở đò dọc tải chè mạn, chè cối từ Mường Lay cho đến hết cửa rừng Hòa Bình'.
+ Hầu hết thời gian sống ông dành cho nghề lái đò trên sông Đà - một công việc đầy khó khăn, mạo hiểm, nhưng ông vẫn đam mê.
- Hình dáng:
+ Hai bàn tay dài như cây sào.
+ Bàn chân cúi lại như kẹp lấy tay lái tưởng tượng.
+ Ánh nhìn xa cổng bến như đang nhìn thấy một điều gì đó trong sương mù.b) Kỹ năng và tâm hồn của người lái đò: c) Nhận định về vẻ đẹp chân dung của người lái đò: 3. Tóm tắt:
II. Bài mẫu Hình tượng người lái đò trong Người lái đò sông Đà xuất sắc nhất của học sinh giỏi
1. Bài văn Phân tích hình tượng người lái đò trong tùy bút Người lái đò Sông Đà xuất sắc nhất
Nguyễn Tuân, một nghệ sĩ trăn trở với vẻ đẹp suốt cuộc đời. Điều này dẫn ông đến những trải nghiệm mạnh mẽ trước những điều tinh tế, quý giá, và tài năng nổi bật nhất. Trên chuyến hành trình khám phá Tây Bắc để khám phá 'thứ vàng mười từng trải qua ngọn lửa' ẩn sau cánh rừng, ông đã gặp gỡ người lái đò - một người lao động bình dị nhưng cũng là một nghệ sĩ tài năng trong việc chèo đò.
Ông lái đò về già, quý cụ hơn 70, không tên, quê ở 'ngã tư sông sát tỉnh'. Cuộc sống của ông gắn bó với dòng sông, 'Thời Tây, Tàu…ông chở đò dọc tải chè mạn, chè cối từ Mường Lay cho đến hết cửa rừng Hòa Bình'. Công việc lao lực, nguy hiểm nhưng ông vẫn yêu nghề, và nghề làm nên dáng vóc độc đáo: 'Hai tay dài lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh gò lại như đang kẹp lấy cái cuống lái tưởng tượng', 'Đôi mắt vời vợi như trông vào cái bến nào đó trong làn sương mù', 'Giọng nói ồm ồm như tiếng thác nước trên mặt ghềnh xa'. Nguyễn Tuân vẽ nên bức tranh chân dung sống động của người lái đò với những đặc trưng nổi bật.
Không chỉ về ngoại hình, sau nhiều năm làm nghề, ông lái đò trở thành nghệ sĩ của chính mình. 'Hơn một trăm lần…chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…' trên dòng sông Đà. Ông am hiểu về sông, về phương tiện. Mắt 'nhớ tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở'. Ông trở thành người nghệ sĩ tài năng, hiểu biết sâu sắc về nghề chèo đò và dòng sông.
Bình tĩnh và tài ba, ông lái đò đối mặt với thác ghềnh. Khi đối đầu với thác nước dữ, ông 'nén đau, giữ mái chờ, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo lần lượt vượt qua các vòng vây của thủy trận sông Đà'. Sự bình tĩnh giúp ông xử lý tình huống nguy hiểm một cách tài tình. Nguyễn Tuân vẽ nên hình ảnh của người lái đò như một chiến binh dũng cảm và tài năng đối đầu với sông Đà hùng vĩ.
Sự gan dạ và tài năng của ông còn thể hiện trong suy nghĩ và cách hành xử. Ông không muốn chèo đò trên sông bằng phẳng, vì đó là những nơi 'dễ dại tay dại chân và buồn ngủ'. Người nghệ sĩ thích thách thức, và ông nghĩ rằng sông Đà chỉ đậm đà với nhà đò khi có thác ghềnh. Ông luôn mong muốn để lại dấu ấn trong công việc của mình, không chỉ để chiến thắng sông Đà, mà để nó ghi nhớ. Ông yêu nghề, tự hào và đam mê với cuộc sống lái đò của mình.
2. Vẻ đẹp của Người Lái Đò trên dòng sông Sông Đà qua bài viết tinh tế Người Lái Đò Sông Đà số 2
Dòng tiêu đề Người Lái Đò Sông Đà đưa ta vào một thế giới kép: Nguyễn Tuân tôn vinh như một nghệ sĩ lái đò tài ba, vượt qua dòng sông hoang dã với tinh thần dũng cảm. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân cũng như là lời khen ngợi, tôn thờ tác giả như là một thủ lĩnh lái đò chữ trên dòng sông văn hóa không kém thác ghềnh.
Chính Nguyễn Tuân bắt đầu bằng những dòng văn đầu tiên: 'Chúng thuỷ giai đông tẩu, Đà giang độc bắc lưu' (Mọi con sông đều chảy về đông, chỉ có sông Đà chảy ngược về phía bắc). Câu đề của Nguyễn Tuân không chỉ thu hút sự chú ý vào vẻ thần thánh của sông Đà, mà còn liên kết với tài năng văn chương của chính ông. Một mặt, chảy ngược về phía bắc là sự chống lại xu hướng tự nhiên, cái độc đáo là sự chống lại sự mòn mát của cái thông thường. Mặt khác, chảy ngược chỉ tồn tại trước sự chảy về phía đông, cái độc đáo chỉ tồn tại khi nó liên quan đến sự khác biệt là cái sáng tạo (tức là cái độc đáo phải trở thành cái riêng mang giá trị). Sự phi giá trị, cái độc hóa làm cho trò chơi thẩm mỹ trở nên hấp dẫn. Đây chính là nguyên tắc cơ bản của việc làm kỳ diệu với văn chương, để vừa loại bỏ sự lặp lại của cái thông thường, vừa kết hợp với cái thông thường mang lại giá trị vững chắc cho văn chương. Còn nguyên tắc độc đáo của việc làm kỳ diệu với ngôn ngữ của Nguyễn Tuân? Trong thế giới của từ ngữ Việt, ngôn ngữ mang tính chất tĩnh lạnh và ổn định. Nghệ sĩ có khả năng biến nó thành một chất liệu động và nóng bỏng, mang lại sự sống động. Trong số những tài năng, văn của Nguyễn Tuân là ngôn từ nóng bỏng, đầy sự sống động. Bài viết về sông Đà có thể coi là một cuộc thử nghiệm sâu sắc của ngôn ngữ nóng bỏng của Nguyễn Tuân.
Đầu tiên, sức nóng của ngôn ngữ Nguyễn Tuân tìm thấy một đối tượng 'nóng': sông Đà. Con sông độc đáo đó thực sự là một nguồn cảm hứng lý tưởng cho một ngòi bút độc đáo. Ngôn ngữ của Nguyễn Tuân đã làm cho con sông không có hồn trí thức, tạo nên một nguồn sáng tạo, và ông đã đặt tên cho dòng sông nghệ thuật của mình bằng một cái tên chứa đựng tính cách của nó: 'dữ dội và đầy tình cảm'. Nếu chỉ có một khía cạnh, con sông sẽ trở nên nhạt nhòa trong sự đơn giản. Tính cách của sông Đà phải là một hệ thống các đặc điểm đối lập nhau như nước và lửa, và chỉ từ những mâu thuẫn âm nhạc đó, con sông mới có thể thể hiện vẻ đa dạng, phức tạp và hấp dẫn của mình.
Đầu tiên là thác nước - trung tâm mãnh liệt của dòng sông Đà. Nước cuồn cuộn, đã quen rồi. Đá cũng kiên cường. Thực sự, đá kiên cường làm cho nước trở nên cuồn cuộn. Vì vậy, cần phải đứng đá lên để lộ bản chất thực sự. Nguyễn Tuân sử dụng một so sánh đặc biệt: 'Hòn đá ấy nghiêng nghiêng trông giống như đang nghiêng hàm hỏi chiếc thuyền phải tuyên bố danh tiếng trước khi bắt đầu trận chiến'. Trong công thức so sánh A = B, sự độc đáo của Nguyễn Tuân chủ yếu nổi bật ở vế B. Trong đoạn văn này, ông thêm động từ hàm hỏi vào B để mang lại năng lượng sống, đủ sức làm cho đá vô tri trở nên sống động, đặt một cái nhìn châm biếm vào thói quen xâm phạm của thiên nhiên hoang dã. Nhưng điều khiến kinh ngạc nhất là cái hút nước. Nguyễn Tuân mô tả cảnh thuyền bị dòng sông nuốt chửng, tạo nên cảm giác lạnh chảy trong người: 'Một số chiếc thuyền đã bị hút sâu, thuyền trồng cây chuối ngược rồi bất ngờ biến mất, bị chìm và mất tích dưới lòng sông, mất hơn mươi phút trước khi xuất hiện dạt ra ở khuỷnh sông dưới'. Người ta thường nói về văn của Nguyễn Tuân như một loại văn kích thích cảm giác mạnh mẽ, có lẽ vì vậy mà cái hút nước nguy hiểm đó trở thành niềm đam mê dưới bút của ông. Ông tiếp tục đặt áp lực lên trí não của độc giả bằng cách buộc họ phải 'trải nghiệm' cảm giác kỳ lạ này: 'Tôi sợ hãi như tưởng tượng một người bạn quay phim táo bạo muốn truyền đạt cảm giác kỳ lạ cho khán giả, đã dũng cảm ngồi trên một chiếc thuyền tròn vành, sau đó cho cả chiếc thuyền và chính mình xuống đáy của cái hút Sông Đà - từ đáy của cái hút nhìn lên tường đá của hút đối diện nhau, lên đến một cột nước cao vài sải. Rồi quay phim. Chiếc thuyền xoay tròn, những đoạn phim màu cũng xoay tròn, máy quay hướng lên trên một miệng giếng được xây bằng nước sông xanh ve như một khối thủy tinh đúc dày, khối pha lê xanh như chuẩn bị vỡ tung ụ vào máy, người quay phim và cả người xem. Cảnh phim thu được từ đáy giếng quay tròn, truyền tải cảm giác đến người xem như họ đang giữ chặt trên ghế như giữ chặt mép một chiếc lá rơi vào một cốc nước lớn vừa rót lên cành cây. Hình ảnh những chiếc thuyền bị hút chửng, hình ảnh cái hút nước như một cái giếng được xây bằng nước sông xoay tròn... tạo nên trong người đọc một cảm giác mạnh mẽ. Họ bị đưa vào cuộc sống, và cảm thấy bối rối vì khó có thể thoát khỏi những ảnh hưởng đầy ma thuật mà từ ngôn từ của Nguyễn Tuân truyền đến họ. Và ấn tượng cuối cùng trong trái tim độc giả là một Sông Đà được nhìn như một thần quái, làm cho họ cảm nhận được sự kinh hoàng về cuộc chiến dữ dội giữa con người và thiên nhiên đã diễn ra ở đây suốt hàng thế kỷ.
Cảm giác hình ảnh liên kết với cảm giác âm nhạc là điểm mạnh của văn của Nguyễn Tuân. Tại đây, độc giả lại phát hiện ra một đặc điểm khác của Nguyễn Tuân: những đoạn văn của ông thường liên kết trong một chuỗi những ý tưởng văn hóa có giá trị cao, có khả năng mê hoặc độc giả trong một chuỗi liên tưởng vô hạn. Mô tả thác nước, Nguyễn Tuân viết: 'Rồi nó vang lên như tiếng một nghìn con trâu mơ đang đối đầu giữa rừng bạt bạt rừng tre nứa bốc cháy, đang bùng phá rừng lửa, rừng lửa hét lên cùng đàn trâu da cháy đang đua nhau'. Thật như một cảnh tượng man rợ như thời tiền sử. Để đo lường toàn bộ năng lượng thẩm mỹ của câu văn, sự liên kết tưởng tượng của độc giả phải kéo dài qua cơ chế ba bước: tiếng thác (hét lên) - tiếng trâu mơ (đối đầu) - tiếng rừng lửa (hét lên). Tưởng tượng của Nguyễn Tuân rất độc đáo: âm thanh của thác nước được biến thành tiếng hét của 'trâu mơ', và cao tay nhất là việc sử dụng rừng lửa (hỏa) tạo ra một bất ngờ thẩm mỹ. Sức mạnh dã dẫn của thiên nhiên qua miêu tả của Nguyễn Tuân, như một cơn động đất rừng, động lạc hoặc thảm họa núi lửa thời tiền sử. Nguyễn Tuân còn nói về cái hút nước một lần nữa: 'nước rót ra như khi đổ dầu sôi vào'. Hai từ 'rót ra' mô phỏng một cách tinh tế âm thanh quái vật, khiến cho sông Đà trở nên như một sinh vật thủy quái bị siết chặt đang giãy giụa.
Mặt thứ hai của Sông Đà là sự trữ tình. Để mô tả đặc điểm này của Sông Đà, Nguyễn Tuân rất khéo léo với những so sánh. Mỗi so sánh mang đến một góc nhìn độc đáo, đầy tính khám phá của nhà văn đối với đối tượng nghệ thuật của mình. Sông Đà giống như một sinh vật thủy quái với những móng vuốt trên mặt ghềnh, hút nước và đá, được nhà văn ví như 'kẻ thù số một' của con người. Nhưng những so sánh đam mê nhất của Nguyễn Tuân là dành cho Sông Đà trữ tình: 'Dây thừng mảnh mai' dưới bàn chân người ngồi trên tàu bay nhìn xuống, 'vóc tóc trữ tình (...) ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc nở hoa như ban hoa gạo tháng hai và cuộn cuộn khói núi Mèo đốt lửa mùa xuân'; sau đó lại như 'một người tri kỷ' trong nỗi buồn của du khách, như 'miếng sáng tỏa ra' trong chiếc gương của đứa trẻ, như 'một bờ tiền sử', như 'một câu chuyện cổ tích ngày xưa'... Những so sánh biến đổi không lặp lại, luôn tạo ra sự bất ngờ, đột ngột, làm cho độc giả ngạc nhiên vì những so sánh kỳ lạ, tạo ra sự đứt đoạn trong chuỗi liên tưởng, để rồi thán phục khi nhận ra không thể có so sánh nào tốt hơn, chính xác hơn, và từ đó bị thôi miên vào mê cung của những so sánh phong phú...
Vẻ đẹp ngôn ngữ của Nguyễn Tuân không chỉ là một phần tự nhiên mà ta nhận được từ trời. Người viết phải bỏ công lao động khó nhọc, trong đó có sự cống hiến lớn trong việc quan sát. Có lẽ chẳng nhiều người hiểu rõ đến mức độ tinh tế của sự biến đổi của sông Đà, với mùa xuân là 'dòng xanh ngọc bích' và mùa thu là 'lừ lừ chín đỏ', còn ở giữa là 'màu nắng tháng ba Đường thi'... Sông Đà trở nên đầy ám ảnh, biến thành kí ức sâu sắc về con người.
Một dòng sông Đà như thế chắc chắn đòi hỏi một đối tượng giao tiếp xứng đáng với tài năng của ông lái đò. Có vẻ Nguyễn Tuân muốn tôn vinh sức hấp dẫn của sông Đà để ngầm ca ngợi ông lái đò như một nghệ sĩ tài ba. Để đối mặt với ông khách không dễ tính này, sông Đà 'bày thạch trận trên sông' như một bảng trận chiến theo phong cách binh pháp của Tôn Tử: cửa tử, cửa sinh, đánh vu hồi, đánh du kích, đánh mai phục, đánh giáp lá cà... Sông Đà là một chiến trường rộng lớn với đủ chiêu trò và thủ đoạn để bóp chết con người. Mặc dù ông lái đò nhỏ bé nhưng lại hiện lên mạnh mẽ như một tướng lĩnh trước con thủy quái khổng lồ, với tư thế là người nắm chắc 'binh pháp của thần sông thần đá'. Để miêu tả cuộc chiến giữa con người và thác nước hung dữ, Nguyễn Tuân sử dụng động từ một cách độc đáo. Trong vài trang kí, ông tận dụng khoảng 300 động từ để mô tả sự ganh đua giữa dòng nước cuồng nộ của sông Đà và sự khéo léo của ông lái đò. Tần suất sử dụng động từ tăng cường nhất là trong các đoạn mô tả hỗn chiến giữa con người và dòng nước, khiến độc giả phải nín thở. Sức mạnh của động từ cuồng phong hòa quyện với sự giận dữ của sông Đà: 'rống lên, nhổm cả dậy, vồ lấy, đánh khuýp, reo hò, thúc, đội, túm, lật ngửa, bóp chặt... Phía ông lái, động từ cũng hợp sức tạo nên tư thế cưỡi hổ hung dữ: nắm chặt, ghì cương, bám chắc, phóng nhanh, lái miết, đè sấn, chặt đôi, phóng thẳng, chọc thủng... Hai hệ thống động từ đối đầu, tương phản mạnh mẽ, nhưng đọc kỹ, vẫn thấy sự ưu thế, sự chiếm lĩnh của ông lái đò. Hãy xem tiếp cách động từ phát huy sức mạnh trong đoạn văn sau đây của Nguyễn Tuân: 'Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá. Nắm chặt lấy được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghi cương lái, bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh, mà lái miết một đường chéo về phía cửa đá ấy. Bốn năm bọn thủy quân cửa ải nước bên bờ liền xô ra định níu thuyền lôi vào tập đoàn cửa tử. Ông đò vẫn nhớ mặt bọn mày, đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo lên, đứa thì ông đè sấn lên mà chặt đôi ra để mở đường tiến...'. Quả là một bức tranh chiến trận hào hùng, ngôn ngữ của Nguyễn Tuân hả hê ca ngợi con người trong cuộc chiến với thiên nhiên để giành lấy sự sống.
Văn của Nguyễn Tuân mang đẹp của sự kết hợp tinh tế giữa văn hóa. Tác phẩm của ông thực sự là sự kết hợp đa dạng về kiến thức: lịch sử, địa lý, quân sự, võ thuật, điện ảnh, hội họa, điêu khắc, âm nhạc... Những kiến thức đa ngành nghệ độc đáo này tạo nên độ phong phú trong tri thức của tác giả, nâng cao cho tài năng văn chương bay bổng. Có thể xem Nguyễn Tuân là người đã làm chủ 'binh pháp của ngôn ngữ'. Với ý thức ngôn từ mới mẻ và hiện đại, Nguyễn Tuân đã truyền hồn cho chữ, chữ truyền hồn cho dòng sông, và dòng sông truyền đạt cảm xúc cho độc giả.
Tuy nhiên, khi nói về Nguyễn Tuân, chúng ta không thể quên rằng văn của ông không chỉ là một lâu đài chứa đựng tri thức mà còn là một biển thâm tâm hồn. Nhiều người từng than phiền về tính phức tạp, khó hiểu của văn của Nguyễn Tuân. Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân tự đánh giá: 'Ngôn ngữ của Nguyễn lủng cà lủng củng, dấm dẳn cứ như đấm vào họng. Đọc lên nghĩa tối quá lời sấm ông trạng. Nguyễn cứ lập ngôn một cách bướng bỉnh vì đời nó ngu thế thì không bướng bỉnh sao được' (Đôi tri kỉ gượng). Nhưng ngôn ngữ Nguyễn Tuân hiện nay đã trở thành ngôn ngữ của một công dân trách nhiệm trước một Việt Nam mới. Ông lái đò Nguyễn Tuân đã đưa con đò của chữ không chỉ bằng bàn tay khéo léo với từ ngữ, mà còn bằng tình yêu sâu sắc với thiên nhiên và con người lao động xây dựng cuộc sống. Hãy chiêm ngưỡng tấm lòng thơ của nhà văn ẩn trong câu văn đầy cảm xúc này: 'Nói chuyện với người lái đò, như càng lai láng thêm cái lòng muốn đề thơ vào dòng sông nước'.
Ở đây, ta xin giới thiệu bài viết Khám phá tượng lãnh đạo của người lái đò trên dòng sông Đà tác phẩm tùy bút của chúng ta. Mọi người có thể tham khảo nhiều bài viết khác liên quan để nâng cao kỹ năng viết, hiểu sâu về tác phẩm hơn:
- Phân tích Chiều sâu của Người lái đò sông Đà
- Bản đồ tư duy về Người lái đò sông Đà