Hồ Biểu Chánh (1885-1958) để lại gia tài với hàng trăm tác phẩm, từ tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, tuồng hát, biên khảo cho đến báo chí, dịch thuật.
Vào ngày 11/5, một số độc giả, trong đó có giới trẻ, đã tham gia buổi trò chuyện chuyên đề về nhà văn Hồ Biểu Chánh, do tiến sĩ Nguyễn Nam - nhà nghiên cứu ngôn ngữ và văn minh Đông Á tại Đại học Harvard (2005) - chủ trì tại TP HCM. Nhiều người tham gia cho biết đã có cơ hội hiểu thêm về cuộc đời, sự nghiệp và đóng góp của Hồ Biểu Chánh trong văn học Việt Nam.
Trong buổi trò chuyện này, diễn giả đã giới thiệu lại về cuốn Chân dung Hồ Biểu Chánh, xuất bản lần đầu năm 1974 và tái bản lần thứ ba vào cuối năm 2023, của giáo sư Nguyễn Khuê. Sách còn chứa đựng nhiều tài liệu được cung cấp bởi Hồ Văn Kỳ Trân - con trai của nhà văn.

Hồ Biểu Chánh sinh năm 1885, tên thật là Hồ Văn Trung, tự Biểu Chánh, hiệu Thứ Tiên. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo có 12 người con ở làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay là Tiền Giang), và trải qua những khó khăn trong tuổi thơ. Lúc 9 tuổi, ông học chữ nho tại trường làng, sau đó mới tiếp xúc với chữ quốc ngữ và chữ Pháp.
Năm 1905, ông đậu hạng nhì trong kỳ thi Thành chung, một năm sau đó, ông đỗ kỳ thi Ký lục Soái phủ Nam Kỳ. Trong 35 năm tiếp theo, Hồ Biểu Chánh làm việc cho chính phủ Pháp, thăng tiến đến vị trí Đốc phủ sứ. Dù làm việc cho Pháp, nhưng ông được biết đến là một người thanh liêm, chính trực và lòng thương người nghèo. Thậm chí, ông từng bị Thống đốc Nam Kỳ chuyển công tác vì nghi ngờ ông ủng hộ nhóm 'nghịch Pháp' của Trần Chánh Chiếu.
Tháng 6/1937, ông xin nghỉ hưu nhưng vì không có người thay thế, ông tiếp tục giữ nhiều chức vụ trong chính quyền Pháp, cho đến khi rời chính trường vào cuối năm 1946. Trong những năm hưu, Hồ Biểu Chánh dành hết tâm huyết cho văn chương và tận hưởng tuổi già bình yên.

Theo giáo sư Nguyễn Khuê, cuộc đời văn chương của Hồ Biểu Chánh được chia thành năm giai đoạn: Bắt đầu viết văn, làm thơ (1907-1917), viết báo (1918-1925), tập trung vào viết tiểu thuyết (1925-1941), trở lại làm báo, biên khảo (1942-1952), và tiếp tục sáng tác tiểu thuyết (1953-1958).
Trong mỗi giai đoạn, ông đều tạo ra các tác phẩm xuất sắc, thành công với nhiều thể loại như: Truyện dài, truyện ngắn, truyện thơ, hài kịch, hát bội, cải lương, biên khảo, văn tế, hồi ký, bình phẩm, và thơ dịch.
Trong lĩnh vực tiểu thuyết, ông sáng tác không dưới 64 tác phẩm - con số cao nhất trong số các tác giả miền Nam. Tiến sĩ văn học Võ Văn Nhơn so sánh Hồ Biểu Chánh với 'Balzac của Nam Bộ' - ông không chỉ là một nhà văn tiểu thuyết mà còn là một nhà báo chiến lược, góp phần làm sáng tỏ nền văn học hiện đại và cách mạng hóa thể loại tiểu thuyết.
Hồ Biểu Chánh chủ yếu khám phá cuộc sống ở Nam Bộ từ thôn quê đến đô thị trong những năm đầu thế kỷ 20, với sự đổi mới và tranh đấu giữa cái mới và cái cũ. Những tác phẩm tiêu biểu như Đắng cay cuộc đời (1923), Tình yêu ấm áp (1925), Hoàng hôn và gió đùa (1926), Cha con và tình nghĩa, Khóc lẻ loi (1929), Gia đình nghèo (1930), Ông Cử
Trong thể loại đoản thiên, Hồ Biểu Chánh đã sáng tác tám tác phẩm, trong đó Chị em tôi, Một bông hoa rừng, Đoạn cuối (1944), Hai phu nhân hoặc Tâm hồn phụ nữ (1955) là những tác phẩm được độc giả ưa thích. Trong số những truyện ngắn đáng chú ý có Chuyện cười vui (tập 1,2, năm 1935), Chuyện kỳ quái trên rừng (1945), Câu chuyện lịch sử (1948). Hai tác phẩm dịch thuật nổi tiếng là Tiểu sử cổ tích (1910, từ tiếng Trung), Lửa vàng tung lên bất ngờ (1922, từ kịch Pháp).
Về mảng cải lương, ông để lại dấu ấn với ba vở kịch Hai khúc mắc, Trăng Nga trở về Hồ (1944), Vì dân vì nước (1947). Tình duyên bất ngờ (1926-1941), Công chúa chọn chồng, Thảo sanh sự nghiệp, Trương Công Định dự định vinh danh (1945) thuộc dòng hát bội. Năm vở tuồng hài kịch được khán giả của thời đại đó ghi nhớ, trong đó có Tình anh em, Toại chi nguyện sống (1922), Trách nhiệm lớn lao(1945).

Trong suốt sự nghiệp, ông đã viết 23 tác phẩm nghiên cứu, ba tập thơ, năm bài phê bình văn học, sáu cuốn nhật ký và tám bài diễn thuyết. Theo giáo sư Nguyễn Khuê, để hiểu rõ về di sản văn hóa và tinh thần yêu nước của Hồ Biểu Chánh, ngoài việc đọc tiểu thuyết, người đọc còn nên tham khảo Văn học Đại Việt, Báo Nam Kỳ, loạt sách biên khảo và thơ của ông.
Nhà nghiên cứu Trần Bạch Đằng từng nhận định: 'Công trình văn học của Hồ Biểu Chánh không chỉ là biểu hiện của một phong trào, mà còn là tinh thần nhân văn sâu sắc, không thể phủ nhận. Điều này đủ để chúng ta thấy sự đáng quý của ông, không phải ai cũng có thể duy trì được sự sôi động và bền vững như vậy'.
Gia đình của Hồ Biểu Chánh từng chia sẻ rằng ông coi viết văn như một phần của cuộc sống, như một cách để xua tan cảm giác cô đơn và chữa lành nỗi đau. Ông luôn lo lắng không biết phải làm gì khi không có công việc. Dù bác sĩ khuyên ông nghỉ ngơi, nhưng ông vẫn không thể ngừng viết. Gia đình và người thân cố gắng thuyết phục ông dừng lại, thậm chí kêu gọi các nhà xuất bản và nhà báo không nên đến mua tác phẩm của ông. Mặc dù ông lắng nghe, nhưng khi cả nhà đi vắng hoặc khi ai đó đã ngủ, Hồ Biểu Chánh vẫn bí mật bắt đầu viết suốt đêm.
Trong phần Lời di chúc, Hồ Biểu Chánh đã giải thích: 'Khi tuổi cao cùng với những vấn đề về sức khỏe xuất hiện, sức mạnh của chúng ta dường như giảm đi. Tuy nhiên, tinh thần và trí tuệ của chúng ta vẫn rực rỡ như thời thanh niên. Sau khi hoàn thành tiểu thuyết thứ 62 (Lừng lẫy hào khí, 1957-1958), tôi cảm thấy mệt mỏi và quyết định nghỉ ngơi một thời gian để lấy lại sức khỏe trước khi tiếp tục. Càng viết nhiều, tôi càng cảm thấy hạnh phúc hơn'.
Vào ngày 4/11/1958, Hồ Biểu Chánh qua đời tại nhà riêng. Trong số hàng loạt vòng hoa và lời chúc từ các tổ chức văn hóa và cá nhân, có một bức tranh trên nền nhung ghi chữ 'Văn học nằm trong cõi lòng' của Hội nhà văn Việt.
Thi sĩ Đông Hồ và nhà văn Mộng Tuyết đã chọn những đoạn trích tiêu biểu từ tác phẩm của Hồ Biểu Chánh để viết thành hai câu đối trên tấm lụa vàng, được đọc trước quan tài: Đắng cay cuộc đời, tiểu thuyết đã viết ba mươi sáu thiên, Vì lòng nghĩa và tình thương, Giấc mộng ấy Ai đạt được?/ Trải qua bao khó khăn, thời gian đã bước qua bảy mươi bốn mùa, Giả dối và chân thật, Tình vẫn lưu lại theo thời gian.
Kỳ tiếp: Tài năng văn chương Nam Bộ qua ánh sáng của Hồ Biểu Chánh
Bài kiểm tra để hiểu rõ về chín nhà văn Nam Bộ
Vỹ Cầm (theo Bức tranh về Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Khuê)