
Họ Vàng anh | |
---|---|
Vàng anh gáy đen (Oriolus chinensis) | |
Phân loại khoa học | |
Vực: | Eukaryota |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Chordata |
Lớp: | Aves |
Bộ: | Passeriformes |
Liên họ: | Corvoidea |
Họ: | Oriolidae Vigors, 1825 |
Các chi | |
|
Họ Chim Vàng anh hay họ Chim Hoàng oanh hoặc họ Chim Hoàng li (danh pháp khoa học: Oriolidae) là một họ chim thuộc bộ Sẻ ở Cựu thế giới. Nó không có quan hệ gì với các loài vàng anh Tân thế giới của họ Icteridae.
Họ này bao gồm Sphecotheres viridis, thành viên duy nhất của chi Sphecotheres và khoảng 24 loài (có những số liệu cho rằng có 75 loài ?) chim Vàng anh Cựu thế giới trong chi Oriolus, phân bố chủ yếu tại khu vực nhiệt đới Đông bán cầu, từ châu Phi (khoảng 6 loài) tới Đông Nam Á (khoảng 16 loài) và Australia (4 loài), nhưng không có ở New Zealand và các đảo trên Thái Bình Dương. Loài duy nhất sống ở châu Âu là hoàng anh (Oriolus oriolus) và loài duy nhất sống trong khu vực ôn đới châu Á là vàng anh gáy đen (Oriolus chinensis). Trong văn hóa Việt Nam, vàng anh là nhân vật trong câu chuyện cổ tích Tấm Cám, nó là hóa thân của cô Tấm khi bị hại.
Đặc điểm
Chim họ Vàng anh là các loài chim ăn tạp với thực phẩm chủ yếu là sâu bọ, quả và mật ong. Các loài vàng anh thích sống trong môi trường rừng thưa, thường sống ở tầng cây cao, do đó mặc dù có bộ lông sặc sỡ nhưng chúng hiếm khi được quan sát.
Vàng anh là những loài chim có khả năng hót rất tốt, kích cỡ trung bình. Chúng có mỏ khỏe và nhọn, chân và ngón chân ngắn nhưng mạnh mẽ.
Các loài trong họ này thường có sự khác biệt rõ rệt giữa chim trống và chim mái. Chim trống thường có lông sặc sỡ với các màu tương phản. Hầu hết các loài có lông màu vàng sáng với các vệt đen nổi bật trên đầu, cánh hoặc đuôi. Chim trống của một số loài ở Đông Nam Á có màu đen hoặc đỏ. Chim mái thì thường có màu tương tự nhưng ít tương phản hơn và có phần bụng thường tươi sáng hơn. Chim non có bộ lông tương tự như chim mái nhưng thường có các sọc vằn bổ sung.
Đời sống sinh sản
Các loài vàng anh xây tổ trên ngọn cây, tổ thường được xây ngang. Trứng có vỏ màu trắng hoặc vàng nhạt với các đốm sẫm màu. Chim non có lông màu nâu ánh.
Phân loại học
Trước đây, đôi khi những người nghiên cứu công nhận có tới 4 chi trong họ này, nhưng thường chỉ công nhận 2 chi là Oriolus và Specotheres. Việc đưa 2 chi khác vào họ này như Irena (hiện nay được xếp trong họ Irenidae) và Tylas (hiện nay được xếp trong họ Vangidae) đã gây ra nhiều tranh cãi.
Cho đến năm 2004, nghiên cứu di truyền phân tử về phân loại họ Vàng anh vẫn chưa có kết quả. Những nghiên cứu di truyền gần đây đã chỉ ra rằng họ này bao gồm 4 chi là Oriolus, Specotheres, một phần của chi Pitohui (bao gồm Pitohui kirhocephalus và Pitohui dichrous) và Turnagra (2 loài đã tuyệt chủng gần đây).
Các tranh cãi về phân loại bên trong họ này vẫn còn nảy sinh. Tùy thuộc vào từng tác giả, họ này bao gồm từ 25-28 loài (chi Oriolus với 24 loài và chi Specotheres với 1-4 loài) hoặc 40 loài (chi Oriolus với 27-36 loài). Công việc phân loại chi tiết nhất của họ này được thực hiện lần cuối vào năm 1962, và một số tranh cãi về sơ đồ phân loại các loài vàng anh châu Á được tổng hợp trong bài viết của C.E Dickinson.
Đối với chi Sphecotheres, một số tác giả cũng công nhận thêm ba loài khác: S. flaviventris, S. hypoleucus, S. vieilloti. Trang web của IOC công nhận 3 loài, trong đó ngoài S. viridis, còn có 2 loài được liệt kê ở đây là cuối cùng.
Phylogeny
Cây phát sinh chủng loài của họ Vàng anh được dựa trên nghiên cứu của Jønsson et al. (2010), Johansson et al. (2011).
Oriolidae |
| ||||||||||||||||||