Họ Cúc | |
---|---|
Thời điểm hóa thạch: 49–0 triệu năm trước đây TiềnЄ
Є
O
S
D
C
P
T
J
K
Pg
N
| |
Mười hai loài thuộc họ Cúc, từ các phân họ Asteroideae, Cichorioideaea và Carduoideae | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Asterids |
Bộ (ordo) | Asterales |
Họ (familia) | Asteraceae Bercht. & J.Presl, 1820 |
Tính đa dạng | |
Chi | |
Chi điển hình | |
Aster L., 1753 | |
Các phân họ | |
Asteroideae | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
Compositae Giseke, 1792 Nguồn: UniProt GRIN |
Họ Hoa Cúc (tên khoa học: Asteraceae hoặc Compositae), còn được biết đến với tên họ Hướng dương hay họ Hoa Cúc tây, là một họ thực vật có hoa hai lá mầm. Tên khoa học của họ này bắt nguồn từ chi Aster (Cúc tây) và có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là ngôi sao, mô tả hình dạng của hoa như ngôi sao trong các loài cây, thường được gọi chung là hoa cúc. Họ Asteraceae là họ lớn nhất hoặc thứ hai trong ngành thực vật có hoa, chỉ sau Họ Lan (Orchidaceae) có thể có nhiều loài hơn, với khoảng 25,000 loài đã được miêu tả. Họ này theo các định nghĩa khác nhau bao gồm từ 900 đến 1,650 chi và từ 13,000 đến 24,000 loài.
Theo dữ liệu từ Vườn thực vật hoàng gia Kew mà APG II trích dẫn, họ này bao gồm 1,620 chi và 23,600 loài và là họ đa dạng nhất trong các loài thực vật, với dữ liệu từ Kew cho thấy Họ Lan chỉ có khoảng gần 22,000 loài. Các chi lớn bao gồm Senecio (1,500 loài), Vernonia (1,000 loài), Cousinia (600 loài), Centaurea (600 loài). Định nghĩa các chi thường gặp vấn đề và một số chi thường được chia nhỏ thành các nhóm nhỏ hơn.
Đặc Điểm
Các loài trong họ Hoa Cúc phải chia sẻ tất cả các đặc điểm sau đây (Judd và cộng sự, 1999). Không có đặc điểm nào trong số này độc lập, mà có thể xem là chia sẻ giữa hai hoặc nhiều nhóm thuộc cùng một nhánh (synapomorphy).
- Cụm hoa: Cụm hoa ở dạng đầu
- Bao phấn hữu tính, tức là các nhị hoa kết hợp lại với nhau ở các gờ bằng các bao phấn, tạo thành ống
- Bầu nhụy với phân bố cơ bản của các noãn hoa
- Các noãn hoa trên một bầu nhụy
- Mào lông (chùm lông trên quả)
- Quả là loại quả bế (hình thành từ một lá noãn và không nở khi chín).
- Các sesquiterpen có mặt trong tinh dầu, nhưng không có các iriđôit.
Đặc điểm phổ biến và phổ biến nhất của các loài này trong tiếng nói thông thường được gọi là 'hoa', là cụm hoa hoặc cụm hoa hình đầu (thực ra là hoa giỏ (lam trạng hoa tự); là một cụm dày đặc của nhiều hoa nhỏ, thường gọi là các chiếc hoa (nghĩa là 'các hoa nhỏ').
Các loài trong họ Cúc thường có một hoặc cả hai loại hoa con. Vòng ngoài của cụm hoa hình đầu tương tự như ở hoa hướng dương được tạo thành từ các hoa con dạng cánh hoa dài, được gọi là lưỡi bẹ; chúng là hoa tia. Phần bên trong của đầu cụm hoa (hay đĩa) được hợp thành từ các hoa nhỏ với các cánh hoa dạng ống; chúng là các hoa đĩa hay hoa phễu hoặc hoa ống. Thành phần của các hoa trong họ Cúc dao động từ hoa toàn tia (tương tự như ở các loài bồ công anh, chi Taraxacum) tới hoa toàn đĩa (tương tự như ở các loài cỏ dứa).
Tính chất hỗn hợp của các cụm hoa của các loài thực vật này đã khiến cho các nhà phân loại thời kỳ đầu gọi họ này là họ Compositae (từ chữ composit - có nghĩa là kép, hợp, phức). Mặc dù các quy tắc quản lý đặt tên cho các họ thực vật thông báo rằng tên gọi phải bắt nguồn từ chi điển hình, trong trường hợp này là Aster, và do đó sẽ là Asteraceae. Tuy nhiên, tên gọi Compositae đã được chấp nhận như một tên gọi thay thế khác cho họ này (ICBN Điều 18.6).
Các chi trong họ này được chia thành 13 tông. Chỉ có một trong số 13 tông này là Lactuceae, có thể được coi là đủ khác biệt để có thể xem như là một phân họ (phân họ Cichorioideae); các tông còn lại, phần lớn là sự ghép nối lẫn nhau, được đưa vào phân họ Asteroideae (Wagner, Herbst và Sohmer, 1990).
Phân loại
Họ Cúc được công nhận rộng rãi và được đặt trong bộ Asterales.
Theo truyền thống, hai phân họ được công nhận là Asteroideae (hay 'Tubuliflorae') và Cichorioideae (hay 'Liguliflorae'). Phân họ thứ hai này là cận ngành và được chia ra thành nhiều nhóm nhỏ trong hầu hết các hệ thống phân loại mới. Cây phát sinh loài ở đây dựa trên Panero & Funk (2002), cũng được biểu diễn trong hệ thống APG.
- Họ Asteraceae
- Phân họ Asteroideae
- Tông Anthemideae
- Tông Athroismeae
- Tông Astereae
- Tông Bahieae
- Tông Calenduleae
- Tông Chaenactideae
- Tông Coreopsideae
- Tông Doroniceae
- Tông Eupatorieae
- Tông Gnaphalieae
- Tông Helenieae
- Tông Heliantheae
- Tông Inuleae
- Tông Madieae
- Tông Millerieae
- Tông Neurolaeneae
- Tông Perityleae
- Tông Plucheae
- Tông Polymnieae
- Tông Senecioneae
- Tông Tageteae
- Phân họ Barnadesioideae
- Chi Arnaldoa - Barnadesia - Chuquiraga - Dasyphyllum - Doniophyton - Duseniella - Fulcaldea - Schlechtendalia
- Phân họ Carduoideae
- Tông Cardueae
- Phân họ Cichorioideae
- Tông Arctotideae
- Tông Cichorieae
- Tông Eremothamneae
- Tông Gundelieae
- Tông Liabeae
- Tông Mutisieae
- Tông Tarchonantheae
- Tông Vernonieae
Cây phát sinh loài
Biểu đồ dưới đây không chắc chắn được vẽ. Hình hoa rô biểu thị nhánh được hỗ trợ rất kém (<50%), dấu chấm biểu thị nhánh được hỗ trợ kém (<80%).
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Đáng chú ý là bốn phân họ Asteroideae, Cichorioideae, Carduoideae và Mutisioideae chiếm tới 99% sự đa dạng loài của toàn bộ họ (tương ứng khoảng 70%, 14%, 11% và 3%).
Ứng dụng
Các loài thực vật có giá trị thương mại quan trọng trong họ này bao gồm các loại cây như rau diếp, rau diếp xoăn, atisô, hướng dương và atisô Jerusalem. Guayule (Parthenium argentatum) là nguồn nhựa mủ ít gây dị ứng.
Nhiều thành viên trong họ Asteraceae là các nguồn sản xuất mật hoa dồi dào và hữu ích cho việc thụ phấn của các quần thể động vật trong giai đoạn hoa nở của chúng. Centaurea (xa cúc), Helianthus annuus (hướng dương), và một số loài Solidago (goldenrod) là các nguồn cung cấp mật và phấn hoa chủ yếu cho ong mật. Solidago sản xuất phấn hoa giàu protein, giúp ong mật sống tốt qua mùa đông.
Nhiều loài trong họ này còn được trồng làm cây cảnh để thu hoạch hoa, ví dụ như các loài thuộc chi Chrysanthemum. Một số loài cây được sử dụng trong y học cổ truyền như bồ công anh, cúc hoa (cúc hoa vàng - Chrysanthemum indicum - và cúc hoa trắng). Hoa cúc thường được sử dụng trong tang lễ, vì vậy người châu Âu và châu Mỹ thường ám ảnh và ghét những ai tặng hoa cúc cho họ, bởi chúng xem như một lời nguyền chết. Tuy nhiên, tại Việt Nam, các loại cúc vàng như cúc Đà Lạt rất được ưa chuộng để trưng trong dịp Tết.