- Để tìm hiểu về chi thuộc họ Lá thang (Polemoniaceae), xem bài viết về Phlox.
Trúc đào | |
---|---|
Trúc đào (Nerium oleander) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Plantae |
(không phân hạng) | Angiospermae |
(không phân hạng) | Eudicots |
(không phân hạng) | Asterids |
Bộ (ordo) | Gentianales |
Họ (familia) | Apocynaceae |
Phân họ (subfamilia) | Apocynoideae |
Tông (tribus) | Wrightieae |
Chi (genus) | Nerium L., 1753 |
Loài (species) | N. oleander |
Danh pháp hai phần | |
Nerium oleander L., 1753 |
Trúc Đào (danh pháp hai phần: Nerium oleander), là một loại cây bụi hoặc cây gỗ nhỏ, thường xanh thuộc họ La bố ma (Apocynaceae). Đây là loài duy nhất hiện nay được phân loại trong chi Nerium. Thành phố cổ Volubilis ở Bắc Phi được đặt tên theo tên gọi trong tiếng Latinh cổ của loài cây này. Ở Trung Quốc, nó được gọi là giáp trúc đào (夹竹桃).
Loài cây này có nguồn gốc từ một khu vực rộng lớn từ Maroc và Bồ Đào Nha kéo dài về phía đông đến khu vực Địa Trung Hải và miền nam châu Á. Thường mọc quanh các lòng suối khô, cây có thể cao từ 2–6 m, với các cành mọc gần như thẳng. Lá mọc thành cặp hoặc trong các vòng xoắn gồm ba lá, dày và bóng như da, màu xanh đậm, hình mũi mác hẹp, dài khoảng 5–21 cm và rộng 1-3,5 cm, với mép lá nhẵn. Hoa mọc thành cụm ở đầu mỗi cành, có màu trắng, vàng hoặc hồng tùy thuộc vào giống, đường kính từ 2,5–5 cm, với 5 thùy bao quanh ống tràng trung tâm. Hoa thường có hương thơm, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Quả của cây là quả nang dài và hẹp, dài từ 5–23 cm, nứt ra khi chín để phát tán các hạt nhỏ phủ đầy lông tơ.
Trong quá khứ, các cây có mùi thơm đôi khi được phân loại là một loài riêng biệt gọi là N. odorum, nhưng đặc điểm này không ổn định và hiện tại không còn được coi là một phân loại tách biệt.
Cây trồng và ứng dụng
Trúc đào phát triển mạnh mẽ ở các khu vực cận nhiệt đới ấm áp, nơi nó được sử dụng phổ biến làm cây cảnh trong các công viên và dọc theo các con đường. Cây có khả năng chịu hạn khá tốt và có thể chịu được sương giá không thường xuyên xuống tới -10 °C (Huxley và cộng sự, 1992). Nó cũng có thể được trồng ở những khu vực có khí hậu lạnh hơn trong nhà kính hoặc trong chậu đặt trong nhà và di chuyển ra ngoài vào mùa hè. Hoa trúc đào nổi bật với màu sắc và mùi hương quyến rũ, lý do chính để trồng cây này. Đã có hơn 400 giống được đặt tên, với nhiều màu hoa bổ sung mà không thấy ở các giống hoang dã, bao gồm đỏ, tía và cam; trong đó trắng và hồng là phổ biến nhất. Nhiều giống có hoa kép.
Y học
Dịch chiết từ lá trúc đào được sử dụng để điều trị tình trạng sung huyết và cũng được áp dụng trực tiếp để điều trị các vấn đề về da. Lá trúc đào chứa glycosid tim chính, với khoảng 17 loại glycosid tim khác nhau, và hàm lượng glycosid tim toàn phần là 0,5%. Các glycosid quan trọng bao gồm oleandrin, deacetyloleandrin, neriantin và adynerin.
Cần lưu ý rằng tất cả các bộ phận của cây trúc đào đều chứa độc tố, vì vậy việc sử dụng cây trong điều trị phải được thực hiện theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.
Độc tính
Trúc đào là một trong những loài thực vật độc nhất với nhiều hợp chất có thể gây nguy hiểm, đặc biệt là đối với trẻ em. Độc tính của cây rất cao, với nhiều báo cáo cho thấy chỉ cần một lượng nhỏ cũng có thể gây tử vong hoặc gần tử vong (Goetz 1998). Các chất độc đáng chú ý bao gồm oleandrin và neriin, là các glycosid tim mạch, chủ yếu tập trung trong nhựa cây. Cây trúc đào có thể chứa nhiều hợp chất độc hại khác chưa được nghiên cứu và chúng có thể còn nguy hiểm hơn (Inchem, 2005). Vỏ cây chứa rosagenin, có tác dụng giống như strychnin. Tất cả các bộ phận của cây đều có thể gây phản ứng có hại; chỉ cần ăn từ 10-20 lá trúc đào có thể nguy hiểm đến tính mạng đối với người lớn và một lá cũng có thể gây tử vong ở trẻ em. Theo hệ thống giám sát ngộ độc Toxic Exposure Surveillance System (TESS) năm 2002, đã có 847 trường hợp ngộ độc liên quan đến trúc đào ở Hoa Kỳ (Watson 2003). Đối với nhiều loài động vật, chỉ cần 0,5 mg/kg trọng lượng cơ thể cũng có thể gây tử vong (Inchem 2005). Các bộ phận khô của cây cũng rất độc hại cho động vật như cừu, ngựa và bò; chỉ 100 g lá khô cũng đủ giết chết một con ngựa trưởng thành (Knight 1999).
Các triệu chứng ngộ độc
Việc tiếp xúc với trúc đào có thể dẫn đến các triệu chứng ở cả hệ tiêu hóa và tim mạch. Các triệu chứng tiêu hóa bao gồm buồn nôn, nôn mửa, tiết nhiều nước bọt, đau bụng, tiêu chảy có thể có hoặc không có máu, và ở ngựa có thể gây đau bụng (Inchem 2005). Các triệu chứng tim mạch có thể bao gồm loạn nhịp tim, thường là nhịp nhanh sau đó chậm lại dưới mức bình thường, tim đập không đều và không có nhịp cụ thể. Trong các trường hợp nghiêm trọng, có thể xuất hiện da nhợt nhạt và lạnh do tuần hoàn máu kém hoặc không ổn định (Goetz 1998). Ngộ độc cũng có thể ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương, gây ra triệu chứng như mất định hướng, run rẩy, co giật, suy sụp và có thể dẫn đến hôn mê và tử vong (Goetz 1998). Nhựa trúc đào có thể gây kích ứng da, sưng tấy, đau mắt nghiêm trọng và các phản ứng dị ứng như viêm da (Goetz 1998).
Xử lý y tế
Ngộ độc trúc đào xảy ra nhanh chóng và cần được điều trị y tế ngay lập tức khi có dấu hiệu nghi ngờ (hoặc đã xác nhận) ngộ độc ở cả người và động vật (Goetz 1998). Nạn nhân cần được đưa ngay đến bệnh viện. Việc gây nôn và rửa ruột là cần thiết để giảm sự hấp thu các chất độc. Than hoạt tính cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ loại bỏ các chất độc còn sót lại trong cơ thể (Inchem 2005). Các biện pháp chăm sóc y tế tiếp theo sẽ phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của ngộ độc và các triệu chứng xuất hiện.
Hình ảnh
Chú thích
- Hippomane mancinella
Liên kết ngoài
- Thông tin về độc tính của trúc đào có thể xem tại Lưu trữ ngày 05-03-2005 trên Wayback Machine, từ Hiệp hội Trúc Đào Quốc Tế (International Oleander Society)
- Danh sách các loài cây độc hại với vật nuôi tại Lưu trữ ngày 21-10-2005 trên Wayback Machine, Cooperative Extension Service, Đại học Purdue
- Pankhurst R. (chủ biên). “Nerium oleander L.”. Flora Europaea. Vườn Thực Vật Hoàng Gia Edinburgh. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2005.
- Bingtao Li, Antony J. M. Leeuwenberg & D. J. Middleton. “Nerium oleander L.”. Flora of China. Đại học Harvard. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2005.
- Barcelona (2005). “Vườn thực vật Barcelona – Thực vật Bắc Phi”. Jardín Botánico de Barcelona. Adjutament de Barcelona. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 6 năm 2006. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2005.
- Huxley, A. (1992). The New RHS Dictionary of Gardening. Griffiths M. & Levy M. (chủ biên). Macmillan. ISBN 0-333-47494-5.
- Knight, Dr. A. P. (1999). “Guide to Poisonous Plants: Oleander”. Đại học Colorado. Truy cập ngày 18 tháng 11 năm 2005.
- Goetz Rebecca. J. (1998). “Oleander”. Indiana Plants Poisonous to Livestock and Pets. Cooperative Extension Service, Đại học Purdue. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2005. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2005. Đã bỏ qua tham số không rõ
|Coauthors=
(gợi ý|author=
) (trợ giúp); Liên kết ngoài trong|work=
(trợ giúp) - Erwin, Dr Van den Enden (2004). 47_Medical_problems_caused_by_plantsp6.htm “Các vấn đề y tế do cây trồng gây ra: Độc tố thực vật, Glycosid tim” Kiểm tra giá trị
|url=
(trợ giúp). Illustrated Lecture Notes on Tropical Medicine. Viện Y Học Nhiệt Đới Hoàng Tử Leopold. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2005. Liên kết ngoài trong|work=
(trợ giúp) - Inchem (2005). “Nerium oleander L. (PIM 366)””. IPCS Inchem. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2005.
- Desai, Dr Umesh R (2000). “Glycosid tim mạch”. Đại học Virginia Commonwealth School of Pharmacy. Truy cập ngày 19 tháng 11 năm 2005.
- Watson William A., ctv (2003). “Báo cáo hàng năm 2002 của Hệ thống Giám sát Ngộ độc Trung Tâm” (PDF). The American Journal of Emergency Medicine (ISSN 0735-6757). 21 (5). Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 09 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2007.
- Snopes, Huyền thoại ngộ độc trúc đào tại Campfire