A. TÁC PHẨM
1. Nhan đề: “Hoàng Lê nhất thống chí” viết bằng chữ Hán ghi lại về sự thống nhất của triều vương nhà Lê vào thời điểm Tây Sơn đánh bại Trịnh, hoàn trả Bắc Hà cho vua Lê. Nó không chỉ dừng lại ở việc thống nhất của triều vương nhà Lê, mà còn mô tả một giai đoạn lịch sử đầy biến động của xã hội phong kiến Việt Nam vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và một số năm đầu thế kỷ XIX. Cuốn tiểu thuyết có tổng cộng 17 chương.
2. Thể loại: (chí là một dạng văn ghi lại sự kiện, sự việc).
Có thể coi Hoàng Lê nhất thống chí như một tác phẩm tiểu thuyết lịch sử viết theo kiểu chương hồi.
3. Bối cảnh: ở chương 14, tường thuật về sự kiện Quang Trung lớn lên và đánh bại quân Thanh.
4. Tóm tắt nội dung và nghệ thuật
- Nội dung: Với quan điểm lịch sử chính xác và lòng tự hào dân tộc, tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã tái hiện đầy đủ hình ảnh anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ thông qua trận chiến nhanh chóng đánh bại quân Thanh, và sự thảm hại của lãnh đạo quân Thanh cũng như số phận bi đát của vua Lê Chiêu Thống.
- Nghệ thuật: Kể chuyện xen kẽ mô tả một cách sinh động và cụ thể, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ.
5. Ý nghĩa lớn và cấu trúc tổ chức:
* Ý nghĩa lớn: Trích đoạn mô tả chiến thắng vĩ đại của vua Quang Trung, sự thất bại bẽ bàng của lãnh đạo quân Thanh và số phận bi đát của những kẻ phản bội quốc gia, gây hại cho dân.
* Cấu trúc tổ chức: Bao gồm 3 phần
- Phần 1 (từ đầu đến “trong ngày ấy, ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788)”): Nghe tin quân Thanh chiếm Thăng Long, vị vua Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế và bắt đầu tự mình lãnh đạo quân đánh đuổi kẻ thù.
- Phần 2 (“Vua Quang Trung tự mình đầu tiên ra lệnh hợp binh một lực lượng lớn mạnh… vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi xâm nhập thành trấn”): Hành trình điều binh nhanh chóng và chiến thắng ngoạn mục của vua Quang Trung.
- Phần 3 (“Cũng như, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê… cũng cảm thấy nhục nhã”): Thất bại lớn của lãnh đạo quân Thanh và tình trạng bi đát của vua Lê Chiêu Thống.
6. Tóm tắt chương 14 “Hoàng Lê nhất thống chí”
- Đối mặt với sức mạnh của kẻ thù, quân Tây Sơn tại Thăng Long đã rút quân về Tam Điệp và gửi người đến Phủ Xuân báo cáo với Nguyễn Huệ.
- Nghe tin vào ngày 24/11, Nguyễn Huệ ngay lập tức tổ chức lại lực lượng, phân chia quân thành hai đội điện – lữ.
- Ngày 25 tháng Chạp, lễ lên ngôi dưới danh hiệu Quang Trung, Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ đạo hai đội quân tiến vào Bắc.
- Ngày 29 tháng Chạp, quân Tây Sơn đến Nghệ An, Quang Trung dừng lại một ngày, tuyển thêm hơn 1 vạn lính, tổ chức một cuộc duyệt binh lớn.
- Ngày 30, quân của Quang Trung đến Tam Điệp, gặp gỡ với Sở và Lân. Quang Trung khẳng định: “Chỉ cần mười ngày có thể đánh đuổi được quân Thanh“. Trong ngày 30, khi giặc vẫn chưa yên, ông đã suy nghĩ về kế hoạch phục hồi đất nước mười năm sau chiến tranh. Ông cũng tổ chức tiệc mừng quân, lặng lẽ hẹn hò vào ngày mùng 7 tại Thăng Long. Trong đêm đó, quân Tây Sơn tiếp tục tiến lên. Khi đến sông Thanh Quyết, gặp đoàn do thám của quân Thanh, Quang Trung ra lệnh bắt hết không bỏ sót một tên.
- Bình minh ngày 3 Tết, quân Tây Sơn bao vây đồn Hạ Hồi, sử dụng mưu mẹo để buộc quân Thanh đầu hàng ngay, làm cho đồn dễ dàng sa thải.
- Bình minh ngày mùng 5 Tết, quân Tây Sơn tấn công đồn Ngọc Hồi. Quân Thanh chống trả quyết liệt, sử dụng ống phun khói lửa để làm cho chúng ta hoang mang, nhưng gió thay đổi hướng khiến chúng tự hại mình. Cuối cùng, quân Thanh phải đầu hàng, thủ lĩnh Điền châu Sầm Nghi Đống tự tử bằng cách treo cổ.
- Trưa ngày mùng 5 Tết, Quang Trung dẫn đầu quân tiến vào Thăng Long. Các tàn quân của kẻ thù trốn về hướng đê Yên Duyên và chạy vào đoàn phục binh của chúng ta, nhưng bị đẩy vào đầm Mực giày xéo bởi quân voi ở Đại Áng, hơn một vạn người chết. Một số cố gắng chạy qua cầu phao nhưng cầu phao bị đứt, xác người và ngựa chết làm nghẽn cả dòng sông Nhị Hà. Nghe tin quân Tây Sơn tấn công vào mùng 4 Tết, Tôn Sỹ Nghị và Lê Chiêu Thống đã vội vàng rời khỏi biên giới phía bắc. Khi tái hội, Nghị có vẻ cảm thấy xấu hổ nhưng vẫn tỏ ra kiêu căng. Cả hai thu thập quân số còn lại và rút về vùng Bắc.
B. PHÂN TÍCH VĂN BẢN
Đề bài: Cảm nhận của tôi về vẻ đẹp của hình tượng anh hùng áo vải Quang Trung qua chương 14 của tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài :
- “Hoàng Lê nhất thống chí” là một cuốn tiểu thuyết lịch sử viết bằng chữ Hán theo dạng chương hồi do nhiều tác giả trong Ngô Gia Văn Phái (Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du…) cùng thực hiện. Tác phẩm này tường thuật một cách toàn diện cảnh giác sụp đổ, hao hụt của triều đình Lê Trịnh và sức mạnh mới nổi của phong trào Tây Sơn..
- Trong chương 14 của tác phẩm, hình tượng người anh hùng Quang Trung được miêu tả với tính cách hùng dũng, trí tuệ sáng suốt và tài năng chiến lược vượt trội.
II. Thân bài:
1. Quang Trung là một nhân vật hành động mạnh mẽ quyết đoán
- Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn thể hiện sự quyết đoán và nhanh nhạy trong hành động, luôn có mục tiêu rõ ràng và quyết tâm không lùi bước.
- Nghe tin giặc đã chiếm Thăng Long, mất một phần lớn lãnh thổ, ông không do dự, “quyết định tự mình dẫn quân ra chiến trường ngay lập tức”.
- Trong thời gian ngắn hơn một tháng, Nguyễn Huệ đã thực hiện nhiều việc lớn: “tố cáo trời đất”, lên ngôi vị hoàng đế, ra lệnh triệu tập quân đại binh ra Bắc.
2. Đó là một cá nhân có trí tuệ sáng suốt và sắc bén
Khi hàng chục nghìn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị đưa vào lãnh thổ của chúng ta, tình hình khẩn trương, vận mệnh của quốc gia “như trên bờ vực vực sâu”, Nguyễn Huệ đã quyết định đăng quang hoàng đế để giữ vững danh tiếng, đặt niên hiệu là Quang Trung.
Việc lên ngôi được xem xét cẩn thận nhằm mục đích thống nhất bên trong, thu hút những người tài giỏi và quan trọng hơn là “để ngăn chặn kẻ phản bội và giữ lòng tin của dân chúng”, được sự ủng hộ từ phần đông dân chúng.
* Sự sáng suốt trong việc đánh giá tình hình quân - thù
- Trong lời khuyên của mình trước khi ra đường ở Nghệ An, Quang Trung đã rõ ràng chỉ ra “đất nào là của họ” người từ phương Bắc không phải cùng dòng với chúng ta, tư tưởng của họ khác biệt”. Ông cũng đã phê phán tội ác của chúng đối với dân ta: “Từ thời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy lần cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, cướp tài sản của chúng ta, chúng không thể chịu đựng được, ai cũng muốn đuổi chúng đi”.
- Quang Trung đã khích lệ các tướng dưới quyền bằng các ví dụ về những chiến công dũng cảm chống lại kẻ thù ngoại xâm để giành lại độc lập cho dân tộc từ xa xưa như: Trưng nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn…
- Quang Trung đã dự đoán được rằng việc Lê Chiêu Thống trở về có thể khiến một số người Phù Lê “thay đổi ý kiến” về mình nên ông đã sử dụng lời khuyên đối với quân lính trung thành, vừa nghiêm túc: “các người đều là những người có lương tâm, hãy hợp tác với tôi để đạt được mục tiêu lớn. Đừng bao giờ trở thành kẻ phản bội, nếu bị phát hiện sẽ bị trừng phạt ngay lập tức, không tha cho ai”.
* Sự sáng suốt trong việc đánh giá tình hình
- Trong cuộc họp quân ở Tam Điệp, qua những lời của Quang Trung với Sở và Lân ta thấy rằng: Ông đã hiểu rõ tình hình rút quân của hai vị tướng tài này. Dù “thắng kẻ thua người” nhưng không hiểu hết về họ, với sức mạnh hạn chế, không đối phó được với quân số lớn và tài năng của đối thủ hùng hậu nhà Thanh nên buộc phải rút khỏi Thăng Long về Tam Điệp để tái tổ chức lực lượng. Vì vậy, Sở và Lân không bị trừng phạt mà thậm chí được khen ngợi.
- Đối với Ngô Thì Nhậm, ông đánh giá rất cao và sử dụng như một tướng quân tài ba “ngoại công nội đức” việc Sở và Lân rút quân Quang Trung cũng đoán là do Nhậm chủ mưu, không chỉ để bảo toàn lực lượng mà còn gây cho đối phương sự chủ quan. Ông còn lập kế sử dụng Nhậm làm người thông minh để dẹp việc binh đao.
3. Quang Trung là người có tầm nhìn xa trên tầm rộng lớn
- Dù mới chỉ khởi binh, chưa giành được mảnh đất nào nhưng vua Quang Trung đã khẳng định vững vàng như đinh đóng cột “chiến lược tiến đánh đã được lên kế hoạch sẵn”.
- Ngồi trên lưng ngựa, Quang Trung đã thảo luận với Nhậm về chiến lược ngoại giao và kế hoạch 10 năm tới của ta về hòa bình. Đối với đối phương, thường biết rằng thắng trong chiến tranh không thể đạt được ngay lập tức vì xỉ nhục của đất nước lớn vẫn còn tồn tại. Nếu “chờ đợi 10 năm nữa để giữ yên bình và tăng cường lực lượng, sau đó nước giàu mạnh về quân sự thì ta có sợ gì chúng”.
4. Quang Trung là một vị tướng với khả năng thao lược vượt trội
- Chiến dịch hành quân với tốc độ chóng mặt dưới sự chỉ huy của Quang Trung vẫn khiến chúng ta ngưỡng mộ. Đồng thời tiến hành hành quân và chiến đấu mà vua Quang Trung đã lập kế hoạch từ ngày 25 tháng Chạp đến mùng 7 tháng Giêng, thực tế đã thực hiện trước kế hoạch 2 ngày.
- Mặc dù hành quân xa và liên tục nhưng đội quân vẫn gìn giữ trật tự cũng nhờ vào sự tổ chức tài tình của vị tướng quân.
5. Hình ảnh vị vua mạnh mẽ trong chiến trận
- Vua Quang Trung không chỉ đóng vai trò trên danh nghĩa là chỉ huy. Ông đích thực là người lãnh đạo chiến dịch.
- Dưới sự lãnh đạo thông minh của vị tướng quân này, quân đội Tây Sơn đã tham gia vào những trận chiến đẹp mắt, thắng lợi trước kẻ thù.
- Sức mạnh của đội quân đã khiến kẻ thù sợ hãi và hình ảnh người anh hùng được mô tả rất mạnh mẽ: trong tình hình “khói mù phủ kín trời, cách chúng tôi không thấy gì” nổi bật hình ảnh vua “cưỡi voi dẫn dắt quân thúc giục” với chiếc áo bào màu đỏ đã đen từ khói súng.
- Hình ảnh người anh hùng được mô tả rõ nét với tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén, tài chiến lược vượt trội; là người tổ chức và là nguồn cảm hứng của chiến thắng vĩ đại.
III. Kết luận
Với ý thức tôn trọng sự thật lịch sử và lòng yêu nước, các tác giả Ngô Gia Văn Phái là những trí thức hiểu biết trọng về truyền thống, nghĩa nặng của dân tộc, nhưng họ đã không thể tránh khỏi sự thật rằng vua nhà Lê yếu đuối và chiến tích vĩ đại của quân đội Tây Sơn, làm nổi bật hình ảnh vị vua Quang Trung anh hùng dân tộc, nguồn cảm hứng của toàn bộ dân tộc. Do đó, họ đã viết một cách sinh động và hấp dẫn về người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ.
Đề bài: Sự thất bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi thảm của vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân đã được mô tả như thế nào? Em có ý kiến gì về phong cách viết tường thuật ở đây?
1. Trái ngược với hình ảnh vẻ mạnh mẽ của nghĩa quân Tây Sơn là bức tranh của kẻ thù xâm lược
- Tôn Sỹ Nghị kiêu căng, tự phụ, và chủ quan:
+ Kéo quân vào Thăng Long dễ dàng như “đi ngày, đêm nghỉ” như “đi trên mặt đất”, cho là an toàn, không cần phải cảnh giác, chỉ thong thả dạo chơi bên bờ sông, dám thách thức vận may.
+ Hơn nữa, ông còn là một tướng chỉ biết tìm kiếm sự hạnh phúc, dù đã nhận được cảnh báo từ vua Lê Chiêu Thống trước đó, ông vẫn không một chút cảnh giác trong những ngày Tết “chỉ tập trung vào việc vui vẻ, không quan tâm đến những mối đe dọa”, khiến quân lính lơ đãng với tình hình.
- Khi quân Tây Sơn tiến đến, tướng thì hoảng loạn, ngựa không kịp sẵn sàng, người không kịp mặc áo giáp… trước trận địa, “mọi người đều sợ hãi và xao lãng, một số chạy trốn hoặc bỏ chạy tùy tiện, tạo ra tình hình hỗn loạn, hàng người chạy qua cầu, đẩy nhau rơi xuống sông và chết”, “quân lính chạy lung tung, đấu nhau qua cầu, tạo ra một vụt vượt sông đáng sợ”, “đến mức sông Nhị Hà bị tắc nghẽn vì xác chết chen lấn”. Thậm chí cả đội binh mạnh mẽ, tướng lĩnh dũng mãnh, giờ đây chỉ biết phóng xe chạy, mạnh ai nấy điên cuồng, “khuya sâu mà vẫn phải tiếp tục hành quân mà không dám nghỉ ngơi”.
- Trong nghệ thuật: kể chuyện, xen kẽ với những chi tiết thực tế cụ thể, sống động với nhịp điệu nhanh, dồn dập, gấp gáp gợi sự hoảng loạn của kẻ thù. Ngòi bút mô tả khách quan nhưng vẫn chứa đựng tâm trạng hả hê, sung sướng của tác giả và dân tộc trước chiến thắng của Sơn Tây.
2. Số phận bi thảm của bọn vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, gây hại cho dân
- Lê Chiêu Thống và các đồng minh của ông ta đã vì lợi ích cá nhân của gia tộc mà đặt vận mệnh của dân tộc vào tay kẻ thù xâm lược, họ phải chịu đựng nỗi sự nhục nhã của người khốn khổ, bất lương, không còn dáng vẻ của một vị vua, và cuối cùng phải chung số phận đáng thương của kẻ mất nước.
- Khi xảy ra biến cố, quân Thanh tan rã, Lê Chiêu Thống và các tín đồ “đưa hoàng hậu ra khỏi cung đi”, chạy trốn không biết sống chết, cướp thuyền của dân để băng qua sông, “nhịn đói mấy ngày”. May mắn được những người tử tế giúp đỡ, họ đã được cho ăn và dẫn đường để trốn thoát. Đuổi theo Tôn Sỹ Nghị, vua tôi chỉ có thể nhìn nhau với người cùng oán trách, uất ức, và khi đến Trung Quốc, phải cạo đầu, cắt tóc, mặc quần áo giống người Mãn Thanh và cuối cùng chỉ còn nắm xương tan tàn nơi đất xa lạ.
- Nghệ thuật: Xen kẽ câu chuyện với mô tả sống động, cụ thể để tạo ra ấn tượng sâu sắc. Ngòi bút đính kèm sự đau buồn của tác giả và những người trung thành với nhà Lê.
Đề bài: So sánh cách ngòi bút miêu tả hai cuộc tháo chạy (một của quân tướng nhà Thanh và một của vua tôi Lê Chiêu Thống) có điểm gì khác biệt? Giải thích tại sao có sự khác biệt đó?
- Mọi thứ đều là tả thực, với những chi tiết cụ thể, nhưng cảm xúc lại hoàn toàn khác biệt:
- Ở đoạn văn trên, nhịp điệu nhanh, mạnh mẽ, vội vã “ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp”, “tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau…”, ngòi bút mô tả khách quan nhưng vẫn chứa đựng niềm vui, sung sướng của người chiến thắng trước thất bại của bọn giặc ngoại xâm.
- Ở đoạn văn dưới, nhịp điệu chậm hơn, tác giả tập trung mô tả tỉ mỉ những giọt nước mắt bi thương của người thổ dân, nước mắt tủi hổ của vua tôi Lê Chiêu Thống, cảnh nhà bề tôi dự bị “giết gà, nấu cơm”... cảm xúc mang màu sắc buồn bã, đắng cay. Là những người đã từng phục vụ nhà Lê, các tác giả không thể không bàng hoàng trước sự suy sụp của một triều đại mà họ từng dâng hiến, mặc dù họ hiểu rằng điều đó không thể tránh khỏi.