
Thục Gia Hoàng quý phi 淑嘉皇贵妃 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Càn Long Đế Hoàng quý phi | |||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | 14 tháng 9, 1713 | ||||
Mất | 17 tháng 12, 1755 | (42 tuổi)||||
An táng | 2 tháng 11 năm 1757 Địa cung của Dụ lăng | ||||
Phu quân | Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế | ||||
Hậu duệ |
| ||||
| |||||
Tước hiệu | [Cách cách; 格格] [Quý nhân; 貴人] [Gia tần; 嘉嫔] [Gia phi; 嘉妃] [Gia Quý phi; 嘉貴妃] [Hoàng quý phi; 皇貴妃] (truy phong) | ||||
Thân phụ | Kim Tam Bảo |
Hoàng quý phi Thục Gia (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), thuộc Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần gốc Triều Tiên của vua Càn Long thuộc triều đại Thanh.
Thông tin tiểu sử

Hoàng quý phi Thục Gia Kim Giai thị, tên gốc là Kim thị, sinh ngày 25 tháng 7 âm lịch năm Khang Hi thứ 52, thuộc Chính Hoàng kỳ Bao y, là con cháu của một gia tộc Triều Tiên, hiện cư trú tại Nghĩa Châu.
Sau sự kiện Đinh Mão chi dịch (丁卯戰爭) năm 1617, tổ tiên của bà đã đến tìm sự bảo trợ từ Hậu Kim và định cư tại khu vực Đông Bắc. Do đó, Kim thị là một nữ tử gần như thuần chủng người Mãn Châu. Nhà Thanh đã lập Cao Ly Tá lĩnh (高丽佐领), đưa gia tộc bà vào hệ thống này, và được công nhận là Mãn Châu chính thống. Theo 《Mãn Châu Bát Kỳ thị tộc thông phổ - 满洲八旗氏族通谱》, Cao Ly Tá lĩnh là Tá lĩnh duy nhất ở Nội vụ Phủ, dưới quyền Chính Hoàng kỳ Bao y đệ Tứ Tham lĩnh (正黄旗包衣第四参领), quản lý 43 dòng họ khác nhau, trong đó Kim thị và Hàn thị là hai dòng họ nổi bật nhất. Cả hai gia tộc đều lập nghiệp bằng quân công và được phong chức, vì vậy được Mãn Châu quý tộc ưu ái và coi trọng, trở thành những gia tộc có ảnh hưởng trong xã hội.
Theo 《Bát Kỳ thông chí》 cuốn 4, Kỳ phân chí ghi lại: năm đầu Thiên Thông (1627), tổ phụ của Hoàng quý phi Thục Gia là Tam Đạt Lễ (三达礼), khi đó đã theo anh trai là Tân Đạt Lễ (辛达礼) phục vụ Hậu Kim và trở thành phiên dịch viên. Khi Hoàng Thái Cực triển khai quân đội ở bán đảo Triều Tiên, Tân Đạt Lễ phục tùng Chính Hoàng kỳ Bao y, được bổ nhiệm làm Cao Ly Tá lĩnh, còn Tân Đạt Lễ giữ chức Cao Ly đệ Nhị Tá lĩnh và kiêm Tổng quản Nội vụ Phủ Tam kỳ Hỏa doanh. Tổ phụ Thượng Minh (尚明) không có thông tin rõ ràng. Cha của Kim thị là Thượng Tứ Viện Khanh Kim Tam Bảo (金三宝), từng làm Tuần thị Trường lô diêm chính (巡视长芦盐政), sau đó thăng chức Võ Bị viện Khanh, kiêm nhiệm Công trung Tá lĩnh (公中佐领), Đệ Tam Tá lĩnh và Đệ Tứ Tá lĩnh. Anh trai trưởng Kim Đỉnh (金鼎) từng giữ chức Lam Linh Thị vệ (蓝翎侍卫), em trai Kim Huy (金辉) từng là Mãn Tả Thị lang bộ Binh, và em út là tương lai Lễ bộ Thượng thư Kim Giản.
Là một Bao y thuộc Nội vụ phủ, Kim thị đã được tuyển chọn vào cung làm cung nữ và có thể đã hầu hạ Hoàng tứ tử Hoằng Lịch, được phong làm Cách cách. Tuy nhiên, thời gian chính xác khi bà bắt đầu phục vụ vẫn chưa rõ. Khoảng năm Ung Chính thứ 5 (1727), tài liệu cho thấy trong cung của Hoàng tứ tử Hoằng Lịch có từ tám đến chín Cách cách, Kim thị có thể là một trong số đó.
Thứ phi Đại Thanh
Chức vụ Quý nhân
Vào năm Ung Chính thứ 13 (1735), ngày 3 tháng 9 âm lịch, Bảo Thân vương Hoằng Lịch lên ngôi, được gọi là [Càn Long Đế]. Cùng ngày, Hi quý phi Nữu Hỗ Lộc thị được tôn làm Hoàng thái hậu, và Đích Phúc tấn Phú Sát thị được phong làm Hoàng hậu.
Ngày 24 tháng 9 âm lịch cùng năm, đã có chỉ dụ phong tấn cho các phi tần khác từ Tiềm để, trong đó Trắc phúc tấn Cao thị được phong làm Quý phi, Trắc phúc tấn Na Lạp thị làm Phi, Cách cách Tô thị và Cách cách Hoàng thị được phong Tần, còn Cách cách Kim thị được phong Quý nhân. Dưới Kim thị, Cách cách Hải thị và Cách cách Trần thị đều được phong Thường tại. Vào thời điểm này, Kim thị chưa ở vị trí cao trong hậu cung của Càn Long Đế.
Năm Càn Long thứ 2 (1737), tháng 11, Càn Long Đế quyết định gia ân hậu cung, ngoài Quý phi Cao thị, Nhàn phi Na Lạp và Quý nhân Hải thị ra, tất cả các Hậu phi khác đều được thăng một cấp, trong đó Kim Quý nhân được phong làm Tần. Khi xác định huy hiệu, Nội vụ phủ đã soạn ra 4 huy hiệu là 「Lệnh; 令」; 「Uyển; 婉」; 「Gia; 嘉」và 「Túy; 粹」, và chọn Gia tần (嘉嫔). Theo ý nghĩa của chữ 'Gia' trong Mãn văn là 「Gitulkhan」, có nghĩa là 'đáng khen'. Vào ngày 4 tháng 12 âm lịch cùng năm, lễ sách phong được tiến hành với Chính sứ là Lễ bộ Thượng thư Nhậm Lan Chi (任兰枝) và Phó sứ là Nội Các Học sĩ Ngô Gia Kỳ (吴家骐).
Năm Càn Long thứ 4 (1739), vào ngày 14 tháng 1 (tức 21 tháng 2 dương lịch), giờ Mão, bà sinh ra Hoàng tứ tử Vĩnh Thành, hoàng tử đầu tiên của Càn Long Đế sau khi lên ngôi. Đến năm thứ 6 (1741), vào ngày 13 tháng 2, bà được thăng từ Gia tần lên Phi, cùng lúc Quý nhân Hải thị, Quý nhân Bách thị và Quý nhân Diệp Hách Lặc thị cũng được thăng lên Tần. Cùng năm, vào tháng 11, lễ sắc phong được thực hiện với Chính sứ là Lễ bộ Thượng thư Tam Thái (三泰) và Phó sứ là Lễ bộ Thị lang Mãn Sắc (满色). Đến năm Càn Long thứ 11 (1746), ngày 15 tháng 10, giờ Ngọ, bà sinh ra Hoàng bát tử Vĩnh Tuyền.
Được thăng làm Quý phi
Vào năm Càn Long thứ 13 (1748), Càn Long Đế đã tổ chức lễ phong tặng nhiều phi tần trong hậu cung, trong đó Gia phi Kim thị được phong làm Quý phi.
Năm Càn Long thứ 14 (1749), vào ngày 8 tháng 4 âm lịch, Đại học sĩ Sử Di Trực (史贻直) được chỉ định làm Chính sứ, và Lễ bộ Thượng thư Vương An Quốc (王安国) làm Phó sứ, để thực hiện lễ sắc phong Quý phi trọng thể.

Dựa trên tiền lệ của việc phong tặng Tuệ Hiền Hoàng quý phi Cao thị cùng ngày với Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, các quan viên bộ Lễ đã xin Càn Long Đế cho Gia Quý phi nhận triều bái từ các Công chúa, Thân vương Phúc tấn và Cáo mệnh phu nhân trong lễ trọng. Tuy nhiên, Càn Long Đế đã từ chối, lý do là nếu các Công chúa, Thân vương Phúc tấn và Cáo mệnh phu nhân vào triều bái Hoàng quý phi Nhiếp lục cung sự Na Lạp thị, mà Gia Quý phi cũng nhận lễ thì sẽ khó phân biệt cấp bậc chính thứ. Bên cạnh đó, Thuần Quý phi Tô thị khi được phong Quý phi trước đó cũng không nhận lễ như vậy. Do đó, Càn Long Đế đã quy định vào Hội điển rằng:
- [Ngày 6 tháng 4 năm Càn Long thứ 14. Thượng dụ: Lễ bộ đã trình bày rằng, khi sách phong Hoàng quý phi Nhiếp lục cung sự và tấn phong Quý phi, có nghi chú nội xưng, yêu cầu các Công chúa, Vương phi, Mệnh phụ đến trước Hoàng quý phi và Quý phi để hành lễ. Trước đây, khi Hoàng khảo phong Đôn Túc Hoàng quý phi làm Quý phi, các Công chúa, Vương phi và Mệnh phụ đều đã hành lễ. Càn Long năm thứ 2, khi phong Tuệ Hiền Hoàng quý phi làm Quý phi cũng theo lệ hành lễ. Đến năm thứ 10, khi Hoàng quý phi và Thuần Quý phi đồng thời được phong Quý phi, thì không có lễ triều bái. Trẫm cho rằng, người được sơ phong Quý phi, các Công chúa, Vương phi và Mệnh phụ nên hành lễ thêm kính trọng. Nếu từ Phi tấn lên, nghi tiết sẽ được lược giảm. Do Hoàng quý phi Nhiếp lục cung sự và Gia Quý phi được phong cùng ngày, mà lễ triều bái của Công chúa, Vương phi và Mệnh phụ không phân biệt thì lễ chế cũng không hợp lý. Gia Quý phi nên theo lệ của Thuần Quý phi năm đó, không cần lễ triều bái. Đem việc này ghi vào Hội điển.]
Vào ngày 9 tháng 7 năm đó, vào giờ Hợi, bà đã sinh ra Hoàng cửu tử. Đến năm sau (1749), vào ngày 27 tháng 4, Hoàng tử qua đời và được an táng cùng nơi với Đoan Tuệ Hoàng thái tử Vĩnh Liễn.
Trong năm Càn Long thứ 17 (1751), vào ngày 7 tháng 2 giờ Thân, Hoàng thập nhất tử Vĩnh Tinh ra đời. Vào ngày 25 tháng 7 cùng năm, nhân dịp sinh nhật của Gia Quý phi, bà được thưởng 81 món quà theo quy định. Cũng trong năm ấy, vào ngày 27 tháng 10, các kim quan của Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu, Tuệ Hiền Hoàng quý phi và Triết Mẫn Hoàng quý phi được đưa đến Dụ lăng. Kế Hoàng hậu Na Lạp thị cùng Gia Quý phi Kim thị, Di tần Bách thị và Dĩnh tần Ba Lâm thị đã tham gia lễ phụng an theo Càn Long Đế. Gia Quý phi còn cùng Hoàng hậu theo Càn Long Đế kiểm tra địa cung của Dụ lăng.
Truy phong Hoàng quý phi
Vào năm Càn Long thứ 20 (1755), khi đứa con trai thứ tư của bà được 4 tuổi, vào ngày 15 tháng 11 âm lịch, Gia Quý phi Kim thị lâm bệnh nặng và qua đời ở tuổi 42. Ngày hôm sau, vào ngày 16 tháng 11, theo chỉ dụ của Sùng Khánh Hoàng thái hậu, bà được truy phong thành Hoàng quý phi. Đến ngày 17 tháng 11, bà được chính thức truy thụy hiệu là Thục Gia Hoàng quý phi (淑嘉皇貴妃), và vào tháng 12, quan lại được cử để tế cáo Thái miếu và Phụng Tiên điện. Theo Hồng xưng thông dụng của Nội vụ phủ, chữ 'Thục' có âm Mãn là 「Nemgiyen」, nghĩa là 'dịu dàng' và 'uyển chuyển'. Kim quan của bà được an táng tạm thời tại Tĩnh An trang.
Vào ngày 2 tháng 11 năm Càn Long thứ 22 (1755), kim quan của Thục Gia Hoàng quý phi được chôn cất tại địa cung của Dụ lăng, Thanh Đông lăng. Bà là một trong năm hậu phi được an táng tại Dụ lăng cùng với Càn Long Đế, bên cạnh Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, Tuệ Hiền Hoàng quý phi và Triết Mẫn Hoàng quý phi. Thần bài của bà được đặt ở Tây Noãn các trong Long Ân điện (隆恩殿), phía Tây là bài vị của Tuệ Hiền Hoàng quý phi (ở giữa Noãn các), và phía Đông là bài vị của Triết Mẫn Hoàng quý phi.

Dưới triều Gia Khánh, gia tộc của bà đã được giải phóng khỏi thân phận Bao y và chính thức trở thành Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, gia nhập Thượng Tam kỳ. Đến năm Gia Khánh thứ 23, Hoàng đế đã ban chỉ sửa tên Kim Thị thành [Kim Giai thị] trong ngọc điệp hoàng gia. Từ đó, gia tộc ngày càng phát đạt, Kim Giản lần lượt đảm nhận các chức vụ như Tương Hoàng kỳ Hán quân Đô thống, Lại bộ Thượng thư. Con trai ông là Ôn Bố (缊布), từng giữ các chức vụ từ Bái đường a, Lam Linh Thị vệ, Tổng binh trấn Thái Ninh, Nội vụ phủ đại thần, Võ Anh điện Tổng đài quan, Tương Hồng kỳ Hán quân Phó đô thống, Công bộ Thị lang, Chính Hồng kỳ Mông Cổ Phó đô thống, và cuối cùng là Thượng thư bộ Hộ. Cháu Thiện Ninh (善宁) giữ chức Thế quản Tá lĩnh, còn Kim Huy đã đảm nhận Tả Thị lang bộ Binh. Gia tộc đã ngày càng phát triển nhờ liên hôn với hoàng thất.
Hậu duệ
- Hoàng tứ tử Vĩnh Thành [永珹; 14 tháng 1 năm 1739 - 2 tháng 2 năm 1777], được chỉ định làm con thừa tự của Lý Ý Thân vương Dận Đào, con trai thứ 12 của Thanh Thánh Tổ, được phong [Lý Quận vương; 履郡王]. Sau khi qua đời, ông được truy tôn với thụy hiệu Lý Đoan Thân vương (履端亲王).
- Hoàng bát tử Vĩnh Tuyền [永璇; 15 tháng 10 năm 1746 - 7 tháng 8 năm 1832], được biết đến với sở thích tửu sắc và mắc tật, không được coi là ứng cử viên phù hợp cho ngôi Thái tử theo Càn Long Đế. Mãi đến năm Càn Long thứ 44 (1779), Hoàng tử Vĩnh Tuyền mới được thăng chức [Nghi Quận vương; 儀郡王]. Ông giữ chức này đến năm 1797 thì được Gia Khánh Đế phong thành [Nghi Thân vương; 儀亲王]. Thụy hiệu của ông là Nghi Thận Thân vương (儀慎亲王). Ông là hoàng tử sống thọ nhất (86 tuổi) trong số 17 hoàng tử của Càn Long Đế.
- Hoàng cửu tử [皇九子; 9 tháng 7 năm 1748 - 27 tháng 4 năm 1749], mất sớm và chưa được đặt tên, được chôn cất cùng Đoan Tuệ Hoàng thái tử Vĩnh Liễn.
- Hoàng thập nhất tử Vĩnh Tinh [永瑆; 7 tháng 2 năm 1751 - 30 tháng 3 năm 1823], nổi bật về thư pháp, được xếp vào hàng Tứ đại thư pháp trứ danh thời bấy giờ, cùng với Bàng Cương (方纲), Lưu Dung (刘墉), Thiết Bảo (铁保). Năm Càn Long thứ 53 (1789), ông được phong [Thành Thân vương; 成亲王]. Sau khi qua đời, thụy hiệu đầy đủ là Thành Triết Thân vương (成哲亲王).
- Hậu cung nhà Thanh
- Triết Mẫn Hoàng quý phi
- Tuệ Hiền Hoàng quý phi
Trong văn hóa đại chúng
Năm | Phim ảnh truyền hình | Diễn viên | Nhân vật |
2005 | 《Thiếu niên Gia Khánh》 | Nhạc Tú Thanh | Gia Quý phi |
2018 | 《Như Ý truyện》 | Tân Chỉ Lôi | Kim Ngọc Nghiên
(金玉妍) |
2018 | 《Diên Hi công lược》 | Phan Thời Thất | Gia tần và Tiểu Gia tần |
- Thanh sử cảo - Hậu phi truyện.
- 满洲八旗中高丽士大夫家族 Lưu trữ ngày 12 tháng 6 năm 2018 trên Wayback Machine