
Tuệ Hiền Hoàng quý phi 慧賢皇貴妃 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Càn Long Đế Hoàng quý phi | |||||
Hoàng quý phi Đại Thanh | |||||
Tại vị | 23 tháng 1 năm 1745 -25 tháng 1 năm 1745 | ||||
Tiền nhiệm | Hoàng quý phi Niên thị | ||||
Kế nhiệm | Nhiếp lục cung sự Hoàng quý phi Na Lạp thị | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh | ? (ước khoảng 1711) | ||||
Mất | 25 tháng 2, năm 1745 Bắc Kinh, Đại Thanh | ||||
An táng | 17 tháng 10, năm 1752 Địa cung của Dụ lăng | ||||
Phu quân | Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế | ||||
| |||||
Tước hiệu | [Cách cách; 格格] [Trắc Phúc tấn; 侧福晋] [Quý phi; 貴妃] [Hoàng quý phi; 皇貴妃] | ||||
Thân phụ | Cao Bân | ||||
Thân mẫu | Mã thị |
Hoàng quý phi Tuệ Hiền (chữ Hán: 慧賢皇貴妃; khoảng năm 1711 - 25 tháng 2 năm 1745), tên thật là Cao Giai thị (高佳氏), thuộc Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Hoàng đế Càn Long triều Thanh.
Tiểu sử

Cao Giai thị, tên gốc là Cao thị, sinh khoảng cuối triều Khang Hi, xuất thân từ tầng lớp Bao y, thuộc Tương Hoàng kỳ ở Liêu Dương. Tổ tiên Cao Danh Tuyển (高名選), tổ phụ của bà, không tham gia quan trường sau khi nhập kì; con trai Cao Đăng Long (高登庸) đảm nhận chức ngôn quan. Con trai Đăng Long, Cao Diễn Trung (高衍中) từng giữ chức Lang trung và Tham lĩnh. Dù không thuộc gia đình quyền quý, Cao gia vẫn có danh tiếng hơn gia đình bình thường. Cao Diễn Trung có con trưởng là Cao Thuật Minh (高述明) và con thứ ba là Cao Ngọc (高鈺), cả hai đều làm Tổng binh.
Cha của Hoàng quý phi Tuệ Hiền là Đại học sĩ Cao Bân (高斌), con trai thứ hai của Diễn Trung, đã từng giữ chức Tổng đốc Hà Đạo dưới triều Ung Chính và được thăng chức Đại học sĩ dưới triều Càn Long. Cao Bân có ba vợ, gồm Trần thị, Kỳ thị và Mã thị, tất cả đều xuất thân từ gia đình quan viên Nội vụ phủ. Mã thị sinh ba con gái và một con trai; Cao thị là con gái lớn (hoặc thứ hai, nếu như con gái trưởng mất sớm). Em gái của Cao thị kết hôn với Ngạc Thật (鄂實), con trai của Ngạc Nhĩ Thái. Em trai của bà, Cao Hằng (高恆), cũng giữ chức cao trong quan trường.
Do xuất thân từ Thượng tam kỳ Bao y, gia đình Cao thị chịu sự quản lý của Nội vụ phủ, được gọi là Nội vụ phủ Bao y. Gia đình Cao thị có truyền thống làm quan cao, vì vậy việc hôn nhân trong gia đình rất được coi trọng, hai cô của Cao thị đều được gả cho các quan viên cấp cao trong Nội vụ phủ. Khi Cao thị trưởng thành, phạm vi hôn nhân của gia đình không còn bị giới hạn trong Nội vụ phủ nữa, ví dụ như em gái của bà kết hôn với Ngạc Thật. Vào thời Ung Chính, Ung Chính Đế đã tuyển Cao thị vào cung để phục vụ Bảo Thân vương Hoằng Lịch, danh phận là ['Sử nữ'; 使女], tương đương với Cách cách.
Phi tần triều Đại Thanh
Danh hiệu Quý phi
Vào năm Ung Chính thứ 13 (1735), ngày 3 tháng 9 âm lịch, Bảo Thân vương Hoằng Lịch lên ngôi, sau này được gọi là [Càn Long Đế]. Vào ngày đó, Hoàng đế đã phong mẹ của sinh mẫu Hi phi Nữu Hỗ Lộc thị thành Hoàng thái hậu, và phong Đích phi Phú Sát thị làm Hoàng hậu.
Vào ngày 24 tháng 9 âm lịch cùng năm, Càn Long Đế ra lệnh phong tặng danh hiệu cho các phi tần trong cung, nâng Cao thị từ Trắc phi lên Quý phi. Gia tộc Bao y của Cao thị được nâng cấp lên Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, điều này làm tăng rõ rệt địa vị và danh tiếng của Cao thị trong hậu cung. Cao thị trở thành Quý phi duy nhất, dưới bà là Nhàn phi Na Lạp thị, Thuần tần Tô thị, và Nghi tần Hoàng thị. Do Càn Long Đế đang trong thời gian để tang, lễ phong Quý phi của Cao thị phải hoãn đến năm sau.
Vào ngày 4 tháng 12 âm lịch năm Càn Long thứ 2 (1737), Bảo Hòa điện Đại học sĩ Trương Đình Ngọc và Nội các Đại học sĩ Tác Trụ được chỉ định làm Chính sứ và Phó sứ, tuyên bố lễ phong tặng Trắc Phúc tấn Cao thị lên Quý phi.

Trong thời kỳ Sùng Đức dưới triều Hoàng Thái Cực, Hiếu Đoan Văn hoàng hậu được sách lập cùng với Tứ phi gồm Thần phi Hải Lan Châu, Quý phi Na Mộc Chung, Thục phi Ba Đặc Mã Tảo và Trang phi Bố Mộc Bố Thái. Hoàng Thái Cực đã tổ chức lễ [Khánh hạ; 慶賀] chúc mừng. Công chúa, Vương phi và các mệnh phụ vào triều bái lạy Hoàng hậu và Tứ phi theo lễ [Tứ túc nhị quỵ nhị khấu lễ; 四肃二跪二叩礼]. Đến triều Ung Chính, Hiếu Kính Hiến hoàng hậu cũng được tổ chức lễ Khánh hạ, và Đôn Túc Hoàng quý phi Niên thị nhận được lễ từ các mệnh phụ. Dưới triều Càn Long, lễ phong của Cao thị được thực hiện cùng lúc với lễ sách lập của Hoàng hậu Phú Sát thị, do đó Càn Long Đế cho phép Cao thị nhận bái kiến theo lễ [Tứ túc nhị quỵ nhị khấu lễ] giống như các Hoàng hậu và Quý phi khác.
Sau đó, khi Gia Quý phi Kim thị được phong làm Hoàng quý phi, lễ phong của bà được tổ chức theo nghi thức Khánh hạ tương tự như khi lập Hoàng hậu. Có ý kiến đề xuất áp dụng quy định của Cao thị, nhưng Càn Long Đế không đồng ý. Ông quy định rằng, việc phong tặng Trắc Phúc tấn lên Quý phi trong dịp đại điển lập Hậu khác với việc nâng cấp phi tần cấp thấp hơn. Vì vậy, Càn Long Đế đã chỉ đạo lập quy tắc trong Hội điển, quy định rằng các Quý phi sơ phong từ tiềm để và cùng được phong trong dịp đại điển có thể nhận triều bái của mệnh phụ, khác với các Quý phi được thăng cấp.
Dựa vào Điền thương nhật (填仓日) của Càn Long Đế, Cao thị được cấp Thiều Cảnh hiên (韶景轩) trong Viên Minh Viên. Theo 'Tiết thứ chiếu thường thiện để đương' (节次照常膳底档), Cao thị có khả năng cư ngụ tại Chung Túy cung trong Tử Cấm Thành.
Phong tặng Hoàng quý phi
Ngày 23 tháng 1 năm Càn Long thứ 10 (tức 23 tháng 2 dương lịch), khi Quý phi Cao thị sắp qua đời, Càn Long Đế ra chỉ dụ nâng bà lên thành Hoàng quý phi.
Vào ngày Càn Long Đế ra chỉ dụ, nhiều phi tần khác cũng được thăng cấp, như Nhàn phi Na Lạp thị và Thuần phi Tô thị lên Quý phi, Du tần lên Phi, và Quý nhân Ngụy thị lên Lệnh tần. Tuy nhiên, vào ngày 25 tháng 1 (25 tháng 2 dương lịch), Hoàng quý phi Cao thị qua đời mà chưa kịp tổ chức lễ phong tặng. Ngày 26 tháng ấy, bà được ban thụy hiệu là Tuệ Hiền Hoàng quý phi (慧賢皇貴妃). Trong khi còn sống, Cao thị không có phong hiệu, chỉ sau khi qua đời mới có thụy hiệu. Theo Hồng xưng thông dụng (鴻稱通用) của Nội vụ Phủ, chữ 'Tuệ' trong Mãn văn là 「ulhisu」, có nghĩa là 'nhanh nhạy', còn 'Hiền' là 「erdemungge」, ý chỉ 'Có đức', tương tự như chữ Hiền trong thụy hiệu của Hiếu Hiền Thuần hoàng hậu.
Vào tháng 4, lễ sách thụy cho Tuệ Hiền Hoàng quý phi và Triết Mẫn Hoàng quý phi được tổ chức tại Thái Miếu hậu điện và Phụng Tiên điện.

Công việc sau khi qua đời
Thơ tưởng niệm của Càn Long Đế
Năm Càn Long thứ 15 (1752), bà được an nghỉ tại Tĩnh An trang (静安庄) thuộc Thanh Đông lăng. Sau khi bà qua đời, Càn Long Đế rất đau buồn, thường viết thơ để tưởng nhớ bà, với tên gọi 'Tuệ Hiền Hoàng quý phi vãn thi điệp cựu tác xuân hoài thi vận' (慧賢皇貴妃挽诗叠旧作春怀诗韵).
Theo thơ ngự chế của Càn Long Đế, cùng với tế văn dành cho Tuệ Hiền Hoàng quý phi, Cao thị rất được Càn Long Đế và Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu yêu quý khi còn là Quý phi, được gọi là [Tá trợ Trung cung; 佐助中宫]. Sau khi Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu qua đời, Càn Long Đế treo bức chân dung của Tuệ Hiền Hoàng quý phi bên cạnh tranh của Hoàng hậu trong Trường Xuân cung. Bà cũng nổi tiếng về thi thơ, được Càn Long Đế khen ngợi là 'Vưu đam văn chương' (尤耽文翰). Mỗi ngày giỗ của bà, Càn Long Đế đều viết thơ để bày tỏ sự tiếc thương. Ngoài Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, Tuệ Hiền Hoàng quý phi là phi tần duy nhất mà Càn Long Đế duy trì việc viết thơ tưởng nhớ suốt nhiều năm.
Vì Tuệ Hiền Hoàng quý phi qua đời vào ngày Điền Thương nhật (填仓日; ngày lưu kho lương thực), nên hàng năm vào ngày này, Càn Long Đế luôn viết thơ để tưởng nhớ bà.
Vào ngày 17 tháng 10 (âm lịch) năm Càn Long thứ 17 (1754), bà được an táng tại địa cung Dụ lăng, bên cạnh Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu và Triết Mẫn Hoàng quý phi. Bà là một trong năm vị hậu phi được an táng cùng Càn Long Đế tại địa cung của Dụ lăng, bên cạnh Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, Triết Mẫn Hoàng quý phi và Thục Gia Hoàng quý phi. Thần vị của bà được đặt ở trung tâm Tây Noãn các trong Long Ân điện (隆恩殿), phía Tây là bài vị của Thục Gia Hoàng quý phi, và phía Đông là bài vị của Triết Mẫn Hoàng quý phi.
Gia tộc được đối đãi
Vào năm Gia Khánh thứ 23 (1819), Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế đã đổi tên dòng họ Tương Hoàng kỳ Cao thị thành Cao Giai thị (高佳氏) để phù hợp với vị thế của một gia tộc Mãn Châu danh giá.
Em trai bà, Cao Hằng, cùng con trai Cao Phát (高朴), sau khi Tuệ Hiền Hoàng quý phi qua đời, đã bị xử án và kết án tử hình dưới triều Càn Long. Dù vậy, gia đình Cao thị vẫn duy trì được địa vị cao quý của mình. Các con trai của bà là Cao Phương (高枋), Cao Thức (高栻), và Cao Kỷ (高杞) đều tiếp tục duy trì hôn nhân với các gia tộc quyền quý, chẳng hạn như Cao Kỷ được bổ nhiệm làm Tổng đốc Thiểm Cam và kết hôn với con gái thứ 9 của Tổng đốc Ái Tất Đạt (愛必達) từ gia tộc Nữu Hỗ Lộc. Con trai Cao Trác (高焯) cũng kết hôn với con gái của nhà Hoằng Nghị công phủ Nữu Hỗ Lộc. Gia tộc Cao Giai thị vẫn giữ vững vị trí của mình đến các triều Đạo Quang và Hàm Phong.
Nhánh của Cao Thật Minh, bá phụ của Tuệ Hiền Hoàng quý phi, vẫn được trọng đãi và thậm chí còn được ưu ái hơn so với nhánh của Cao Bân. Vì vậy, dòng dõi của Tuệ Hiền Hoàng quý phi tiếp tục thịnh vượng suốt thời kỳ nhà Thanh.


Trong văn hóa đại chúng
Năm | Phim | Diễn viên | Nhân vật |
2008 | 《Thượng thư phòng》 (上书房) |
Hà Miêu (何苗) |
Tuệ Như (慧如) |
2018 | 《Như Ý truyện》 (如懿传) |
Đồng Dao (童瑶) |
Cao Hy Nguyệt (高晞月) |
2018 | 《Diên Hi Công Lược》 (延禧攻略) |
Đàm Trác (谭卓) |
Cao Ninh Hinh (高宁馨) |
- Hậu cung triều Thanh
- Hoàng quý phi
- Triết Mẫn Hoàng quý phi
- Thục Gia Hoàng quý phi
- Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu
- Thanh thực lục - Các ghi chép chính sử của triều Cao Tông
- Thanh sử cảo - Truyện về các phi tần trong lịch sử