
Cuốn hồi ký này lấy bối cảnh nước Pháp vào những năm đầu thế kỷ XX, tức cách đây đúng một trăm năm.
Tác giả Phan Văn Trường (1876-1933) quê ở Từ Liêm, Hà Nội, là một người Tây học. Ông sang Pháp du học ngành luật năm 1908, sống tại Pháp 16 năm, nhận bằng tiến sĩ luật, làm luật sư tại Tòa thượng thẩm Paris và nhập quốc tịch Pháp. Những trải nghiệm này là nội dung chính của hồi ký, được ông viết vào đầu năm 1924 khi sắp về nước, sau đó đăng báo tại Việt Nam năm 1925-26 và xuất bản thành sách năm 1928. Cuốn hồi ký của một người Việt nhưng viết bằng tiếng Pháp và lần đầu tiên được dịch và xuất bản hoàn toàn bằng tiếng Việt vào năm 2020.
Sau thất bại của phong trào Cần Vương, đầu thế kỷ XX, cha ông ta tiếp tục tìm kiếm con đường giành độc lập cho Việt Nam khỏi ách đô hộ của thực dân Pháp. Một số người đã tìm cơ hội ngay tại 'nước mẹ' Pháp. Họ là những trí thức Tây học, tiếp thu học vấn và văn minh Pháp, và từ đó nhận ra sự vô lý, tàn ác và giả dối của chủ nghĩa thực dân. Một dân tộc tự nhận văn minh và có trách nhiệm khai hóa các dân tộc khác, trong đó có An Nam, nhưng thực tế thì lời nói và hành động tại thuộc địa luôn trái ngược nhau. Những trí thức đầu tiên gồm Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh - những người từng được gọi là 'Ngũ Long'.
Hồi ký của luật sư Phan Văn Trường - tiến sĩ luật đầu tiên của Việt Nam - tập trung kể lại những hoạt động của ông trong phong trào yêu nước tại Pháp (tổ chức Hội đồng bào thân ái 1912-16 cùng Phan Châu Trinh, sau đó cả hai bị chính quyền bắt ngay trước thềm Thế chiến I với những lý do vu vơ, và một năm sau chính quyền - dưới sức ép của nhiều người - đành phải thả họ ra mà không có một án phạt nào!), những nhận xét phê phán gay gắt chế độ thực dân trên nhiều phương diện, những quan điểm so sánh quan hệ Trung-Việt trong quá khứ và quan hệ Pháp-Việt gần thời gian đó (đây thực sự là phần khá thú vị song có nhiều điều cần bàn lại, khi tác giả đứng trên lập trường Nho học, đề cao Trung Hoa hơi quá đáng, thậm chí phủ nhận cả việc Tàu từng xâm lăng và đô hộ nước ta!). Những trò theo dõi, vu khống, bắt bớ, dọa nạt v.v... của chính quyền thực dân, cụ thể là chính quyền thuộc địa tại Việt Nam và Bộ Thuộc địa tại Pháp, đối với cá nhân tác giả và những người yêu nước khác, cũng được kể lại chi tiết, theo đúng lối viết chặt chẽ của 'con nhà luật', cộng thêm những nét dí dỏm, trào lộng chua cay rất 'Tây' của một người Tây học. Tiếc là không thấy tác giả viết gì về vai trò của ông trong việc soạn thảo bản 'Thỉnh nguyện thư của dân tộc An Nam' năm 1919, mà 'Hội những người An Nam yêu nước', dưới cái tên chung là Nguyễn Ái Quốc, đã gởi tới Hội nghị Versailles năm 1919.
Con người Phan Văn Trường qua lời tự thuật trong những năm sôi động tại Pháp đã hiện lên rất rõ - một con người 'Đông Tây hòa hợp', học vấn Tây học cao siêu, song luôn đau đáu nỗi niềm vì quê hương, vì dân tộc khi đó còn lầm than trong xích xiềng nô lệ. Hiểu rõ pháp luật Pháp, ông dùng chính nó làm vũ khí lên án chế độ thực dân trong cuộc đấu tranh bền bỉ với kẻ thù, dù ở trong lao tù, trong quân đội (là công dân Pháp, Phan Văn Trường phải đăng lính và phục vụ quân đội trong thời gian Thế chiến I) hay ngoài xã hội. Ông luôn thể hiện một cốt cách bình thản, tự tin vào phẩm giá, uy vũ bất năng khuất, cao thượng và chính trực. Cuốn hồi ký khép lại với chuyến đi trở lại Việt Nam cuối 1923 đầu 1924, và tác giả mạnh mẽ kết luận sau 16 năm sống tại mẫu quốc:
'Công cuộc thực dân là một công cuộc bạo lực. Theo đó, nó loại bỏ những gì liên quan đến đạo đức và công lý.'
Đây là một nhận xét vô cùng đanh thép và dũng cảm, xét tới việc nó được công khai viết ra vào những năm 20 của thế kỷ trước. Cuốn hồi ký này không thể nói về giai đoạn 10 năm cuối đời của tác giả (ông mất năm 1933 tại quê nhà Hà Nội), nhưng đó là một thập niên vô cùng sôi nổi của Phan Văn Trường, khi ông tiếp tục hoạt động trên mặt trận báo chí cùng Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn. Vào giai đoạn này, Phan Châu Trinh đã mất, còn người trẻ nhất trong 'Ngũ Long' là Nguyễn Ái Quốc đã ngả hẳn sang con đường cộng sản và từ Pháp tiếp tục di chuyển khắp nơi để làm Cách mạng - phần còn lại thì như mọi người đều biết, đã là Lịch Sử!
Một cuốn sách hơn 250 trang, tuy không dày nhưng đọc lại không dễ, bởi văn phong tác giả rất 'Tây', đặc biệt khi ông châm biếm và chỉ trích thực dân. Tuy vậy, tác phẩm này đưa ta trở về một thế kỷ trước, khi An Nam còn là nước nô lệ, để cảm nhận và trân trọng những nỗ lực của tiền nhân - những người dù có đủ điều kiện để 'vinh thân, phì gia' với học vấn và địa vị trong xã hội thuộc địa nhưng vẫn kiên quyết dấn thân, tìm đường đi cho dân tộc. Học từ Tây mà nhận ra những khuyết điểm của Tây, là dân thuộc địa mà dám mạnh dạn chỉ trích thực dân ở cả Việt Nam và Pháp, tinh thần thép đó thực sự là nguồn cảm hứng lớn cho hậu thế Việt Nam...
Nguyễn Dương Hiếu.