Tổng hợp hơn 40 bài văn Phân tích bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) hay nhất với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn hay hơn.
(Hơn 40 mẫu) Phân tích bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) (cực hay)
Phân tích bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) - mẫu 1
Bài thơ này thể hiện một bức tranh mùa thu u ám, buồn bã, cùng với tâm trạng nặng nề của Đỗ Phủ trong hoàn cảnh loạn ly. Ông lo lắng cho tương lai của đất nước đang trải qua giai đoạn khó khăn và đau xót về số phận không may mắn của mình khi xa quê nhà.
Dịch nghĩa:
Ngọc sáng lung linh trên cỏ khô và lá úa,
Cảnh sơn cùng gió định lại tâm trạng lo lắng.
Những con sóng dài chảy về phía biển xanh mênh mông,
Âm thanh của gió thu được gửi từ trời cao xuống đất dần im lặng.
Cây thông và hoa cúc mở rộng hết cỡ trong ánh nắng chiều ấm áp,
Con chim đơn côi hót một mình với niềm đau lòng.
Những người yếu đuối cũng phải chịu đựng nỗi đau từ những cuộc chiến tranh liên miên,
Và bậc thần thoại trên cao vẫn lặng lẽ quan sát mọi thứ từ vực sâu.
+ Tâm trạng của tác giả qua câu “khí hạnh sâm”
+ Phân tích cảnh vật to lớn theo các tầng biểu hiện bức tranh rộng lớn.
- Phân tích tình thương mùa thu qua 4 câu thơ sau:
+ Qua hình ảnh, từ ngữ, sự đồng nhất giữa các sự vật.
+ Hình ảnh của con người hiện lên làm tăng thêm nỗi nhớ của tác giả.
c. Kết luận:
- Tóm tắt lại nội dung và chia sẻ cảm nghĩ về tác phẩm.
Phân tích bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) - mẫu 2
Đỗ Phủ (712 - 770) tên hiệu Tử Mĩ, người quê ở huyện Củng, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Sinh ra trong một gia đình truyền thống Nho học và thơ ca. Dù trẻ em Đỗ Phủ tham gia thi nhưng không đỗ. Suốt đời, ông sống trong cảnh nghèo khó và bệnh tật. Tuy nhiên, đam mê văn chương trong ông vẫn luôn sáng mãi. Ông sáng tác rất nhiều và để lại hàng ngàn bài thơ với nội dung sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử thời ông và lòng yêu nước thương dân. Với đóng góp lớn cho văn hóa thế giới, UNESCO công nhận Đỗ Phủ là Danh nhân văn hóa thế giới.
Ngoài những bài thơ lịch sử, Đỗ Phủ còn sáng tác nhiều bài thơ trữ tình thể hiện cảm xúc chân thành với thiên nhiên, con người và cuộc sống. Trong số đó, có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) nổi bật. Đây là bài thơ đầu tiên trong tập thơ tám bài mà Đỗ Phủ sáng tác vào năm 766, khi đang sống lưu vong ở Quý Châu... Tứ Xuyên là một vùng núi hiểm trở, cách xa quê hương nhà thơ hàng ngàn dặm. Sau mười một năm kể từ khi loạn An Lộc Sơn giảm, đất nước vẫn còn hỗn loạn vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người. Tình hình này đã kích thích cảm xúc bi thương, chính là tâm trạng chính trong Thu hứng.
Thu hứng là bức tranh mùa thu u tối, buồn bã, là biểu tượng của tâm trạng u sầu của nhà thơ trong tình trạng lưu lạc: lo cho tình hình hiện tại của đất nước đang hỗn loạn, lo lắng về quê hương xa xôi và đau lòng về số phận khốn khổ của bản thân trên đất khách.
Bài thơ có thể chia thành hai phần: Phần đầu tiên (đề, thực) là bức tranh về mùa thu ở vùng núi Trường Giang. Bốn câu tiếp theo chủ yếu thể hiện cảm xúc của thi sĩ trước cảnh thu đến trên đất lạ.
Ở cặp câu đầu tiên, chỉ với vài nét chấm phá, tác giả đã mô tả được vẻ đẹp của một chiều thu ở Quý Châu:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí hạnh sâm,
(Rừng phong lác đác hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)
Người đọc có thể nhận ra Đỗ Phủ đứng ở vị trí cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì vậy tầm nhìn của ông khá xa, rộng lớn. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện ngay từ câu thơ đầu tả cảnh rừng phong:
Ngọc lộ điếu thương phong thụ lâm (Rừng phong lác đác hạt móc sa). Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong thường liên quan đến mùa thu vì mỗi khi mùa thu đến, rừng phong chuyển sang màu đỏ, biểu tượng cho sự chia ly. Sương trắng cũng thường được liên kết với mùa thu, biểu thị sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm rừng phong trở nên ẩm ướt. Tính tiêu biểu của cảnh vật hiện rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ.
Câu thứ hai: Vu sơn, Vu giáp khí hạnh sâm. Khi nhắc đến Vu sơn, Vu giáp, người đọc liền nghĩ đến vùng đất Ba Thục cổ xưa. Khung cảnh được bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bản dịch, từ lòa và hiu hắt chỉ phần nào lộ rõ ý nghĩa của cụm từ khí hạnh sâm (tối tăm, u ám). Chữ ngàn non thay thế cho Vu sơn, Vu giáp làm cho bản dịch dễ hiểu nhưng cũng làm mất đi đặc trưng của phong cảnh Quý Châu. Vu sơn, Vu giáp là núi cao vút, đặc biệt nguy hiểm và hùng vĩ. Được đề cập nhiều trong truyền thuyết, thần thoại và thơ ca Trung Quốc. Trải dài hàng trăm dặm, núi dựng đứng kéo dài theo hai bờ sông, không một chỗ trống. Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao. Ánh mặt trời khó lọt vào lòng sông. Vào mùa thu, khung cảnh ở đây thường u ám, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả của Đỗ Phủ lại càng trở nên tối tăm, u ám.
Hai câu đầu tiên, câu thứ nhất mô tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai mô tả cảnh thu ở núi non. Dù cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn nhận chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau: chất chứa một nỗi buồn thương.
Tiếp tục quan sát thiên nhiên với tâm trạng như thế, Đỗ Phủ đã sáng tác những câu thơ tả thực đầy ám ảnh, như có ma lực cuốn hút hồn người:
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Ở hai câu đầu tiên, là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi), hai câu sau là cảnh thu dưới thấp, vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút tài tình thành những vần thơ trác tuyệt. Sông ở thượng nguồn thường dữ, nhiều ghềnh thác, nước chảy xiết. Vì thế mới có cảnh giữa lòng sông, sóng dữ vọt lên đến tận lưng trời. Trong câu thơ: Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, các tính từ rợn, thẳm đặc tả sự hùng vĩ hiếm có của vùng sông nước này và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người trước thiên nhiên hùng vĩ. Hình ảnh: Mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải xa xăm.
Nếu ở hai câu trước, cảnh sắc nhuốm màu bi thương tàn tạ thì ở đây cảnh sắc lại vừa hoành tráng vừa dữ dội. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau, lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ.
Bốn câu thơ, mỗi câu mô tả một phong cảnh thu cụ thể, sắp xếp liền kề tạo thành một bức tranh mùa thu to lớn, thể hiện rõ ràng bản sắc đặc trưng của mùa thu ở vùng núi non với đủ loại cảnh vật như rừng phong, dãy núi, bầu trời, dòng sông, mặt đất, mây mù, cửa ải xa... Sức mạnh kích thích, sự liên tưởng mà bức tranh thu ấy gợi lên trong tâm trí người đọc là không gì có thể đo lường, không giới hạn. Mặc dù tác giả không nhắc đến cảnh đời điêu linh, nhưng dường như nó đã hiện hữu mờ mịt sau hình ảnh của những cánh rừng phong xơ xác vì sương gió, của đất trời lộn xộn trên sóng nước Trường Giang và của mây xám u ám vùng quan ải. Đứng trước khung cảnh ấy, một nhà thơ với trái tim nhạy cảm như Đỗ Phủ, làm sao có thể không nhớ về quê cũ đến thế lòng cháy bỏng.
Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ diễn đạt tâm trạng của mình trước cảnh mùa thu ở đất xa xứ. Câu thứ năm và câu thứ sáu có sử dụng kỹ thuật đối ngữ, vừa là cảnh thu vừa là tình thu:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc rơi lệ cùng dòng,
Con thuyền buộc mối tình nhà.)
Đây là hai câu hay nhất trong bài thơ viết bằng chữ Hán của Đỗ Phủ cũng như trong bản dịch của Nguyễn Công Trứ.