Hùng Vương 雄王 | |||||
---|---|---|---|---|---|
Vua Văn Lang | |||||
Hùng Vương thứ 18 | |||||
Trị vì | ? – 258 TCN | ||||
Tiền nhiệm | Hùng Vương thứ XVII | ||||
Kế nhiệm | Mất nước, An Dương Vương lên ngôi | ||||
Thông tin chung | |||||
Sinh
| {{{nơi sinh}}} | ||||
Mất | 257 TCN ,207 TCN hoặc 208 TCN Văn Lang | ||||
Hậu duệ | Công chúa Tiên Dung Công chúa Ngọc Hoa Công chúa Ngọc Nương Quan lang kế vị | ||||
| |||||
Triều đại | Hồng Bàng | ||||
Thân phụ | Hùng Vương thứ XVII |
Hùng Vương thứ XVIII (~334 - 258 TCN), còn được biết đến với tên gọi Hùng Duệ Vương, là vị vua cuối cùng của triều đại Hùng Vương trong lịch sử Văn Lang. Theo truyền thuyết, Hùng Vương thứ XVIII có hai người con rể là Chử Đồng Tử và Sơn Tinh.
Hai người con rể
Theo truyền thuyết, Hùng Vương thứ 18 có ít nhất ba người con gái, gồm Mỵ nương Tiên Dung, Mỵ nương Ngọc Hoa và Mỵ nương Ngọc Nương.
Mỵ nương cả, hay còn được biết đến với tên gọi Tiên Dung, đã từ chối lấy chồng đến tuổi cập kê. Một ngày nọ, thuyền rồng của công chúa đến thăm vùng Chử Xá, nơi Chử Đồng Tử đang câu cá ngoài bãi. Nghe tiếng chuông và trống, thấy đàn sáo nghi trượng, và người hầu hoảng sợ vội vã trốn vào cát. Thuyền đậu bờ, Tiên Dung đi dạo rồi sai người quây màn ở bụi lau để tắm, ngẫm nghĩ thấy Chử Đồng Tử nằm dưới cát. Tiên Dung kinh ngạc hỏi han rồi xin được làm vợ chồng với Chử Đồng Tử.
Khi nghe tin, vua Hùng tỏ ra rất giận dữ, không cho phép Tiên Dung trở về cung. Chử Đồng Tử và Tiên Dung mở chợ Hà Thám, trao đổi hàng hóa với dân gian. Một lần đi buôn bán xa, Chử Đồng Tử gặp được đạo sĩ Phật Quang, ở lại để học phép thuật từ người này. Phật Quang tặng cho Chử Đồng Tử một cây gậy và một chiếc nón lá, nói rằng đó là những vật thần linh. Chử Đồng Tử và Tiên Dung bỏ việc buôn bán, đi lang thang tìm kiếm thầy để học đạo. Một đêm trời khuya, mệt mỏi vì không có quán nghỉ trên đường, hai vợ chồng dừng lại, đặt gậy và nón lên đất để nghỉ ngơi. Bất ngờ, vào nửa đêm, nơi đó biến thành cung điện hoành tráng, được trang bị vàng bạc, ngọc jade, đầy quân lính hùng mạnh. Buổi sáng hôm sau, dân chúng xung quanh kinh ngạc, đến dâng hương hoa quả ngọt, xin làm bầy tôi cho vị thần. Từ đó, nơi này phát triển phồn thịnh, sung túc như một quốc gia độc lập. Nghe tin đó, vua Hùng cho rằng có ý phản loạn, vội vàng sai quân đến chiến đấu. Nhưng đến nửa đêm, một trận bão lớn kéo đến, thành trì, cung điện và bầy tôi của Tiên Dung - Chử Đồng Tử bỗng chốc bay lên trời. Nơi đất trống trải ngày xưa bỗng sụp xuống thành một cái đầm rộng lớn, người dân gọi là đầm Nhất Dạ Trạch (Đầm Một Đêm).
Mỵ nương thứ hai là Ngọc Hoa khi đến tuổi cập kê, vua Hùng đã tổ chức hội kén rể. Hai vị thần là Sơn Tinh và Thủy Tinh đến dự hội kén rể, đều có sức mạnh phi thường. Vua Hùng gặp khó khăn trong việc quyết định gả con gái cho ai, nên ông đã quyết định rằng người nào dâng lễ sớm nhất sẽ được lấy Mỵ Nương làm vợ. Lễ vật bao gồm một trăm ván cơm nếp, hai trăm bánh chưng, một con voi chín ngà, một con gà chín cựa, và một con ngựa chín hồng mao, mỗi thứ đều đi theo đôi. Do Thủy Tinh sinh sống dưới biển nên không có nhiều sản vật như vua yêu cầu. Chỉ có Sơn Tinh mới có thể nhanh chóng tìm được các sản vật để dâng lễ cho vua. Khi Sơn Tinh trở thành con rể của vua Hùng, Thủy Tinh tức giận và sai quân lính của mình đi chiến đấu với Sơn Tinh. Cuộc chiến lớn đã xảy ra giữa hai người. Tuy nhiên, Thủy Tinh không thể đánh bại được Sơn Tinh và buộc phải rút quân về. Từ đó, Thủy Tinh và Sơn Tinh thường xuyên đánh nhau hàng năm, gây ngập lụt cho vùng đất của người dân sinh sống. Mỗi lần Thủy Tinh đều thua và phải rút quân về.
Chiến tranh Hùng-Thục
Vào thế kỷ III TCN, các bộ lạc Âu Việt đã hình thành các nhà nước riêng. Sau đó, Thục Phán - thủ lĩnh của bộ lạc Âu Việt đã mở rộng lãnh thổ của họ vào nước Văn Lang của người Lạc Việt, gọi là Chiến tranh Hùng-Thục.
Hùng Vương đã sai con rể là Nguyễn Tuấn (còn được biết đến với tên Nguyễn Tùng, có một số tài liệu cho rằng cũng là Sơn Tinh) để chống lại Thục. Nguyễn Tuấn cùng với hai tướng Cao Sơn và Quý Minh đã ngăn chặn được nhiều cuộc tấn công của Thục Phán, giữ chặt động tác quân Thục tại ải Nam Sơn. Cuộc chiến trở nên khó khăn hơn khi quân Tần (Trung Quốc), do Đồ Thư chỉ huy, đánh bại quân Âu Việt tại vùng Lưỡng Quảng, do thủ lĩnh Dịch Hồ Tống tiến công vào lãnh thổ của người Âu Việt và Lạc Việt, nay thuộc Việt Nam.
Tuy nhiên trong Đại Việt Sử ký Toàn thư lại ghi lại rằng: Hùng Vương có một con gái xinh đẹp tên là Mỵ Nương. Nghe tin vua Thục đã sai sứ cầu hôn. Vua Hùng muốn gả nhưng Lạc Hầu phản đối rằng: Thục chỉ muốn lợi dụng tiếng cầu hôn đó. Không được gả Mỵ Nương, Thục Vương tức giận, ra lệnh cho con cháu phải xóa sổ Văn Lang để chiếm lấy đất nước. Đời thứ Thục Vương là Thục Phán đã không ít lần đem quân sang xâm chiếm nước Văn Lang. Nhưng với tướng lĩnh tài ba, Hùng Vương đã đánh bại quân Thục. Hùng Vương nói: Chúng ta có sức mạnh thần thánh, nước Thục không có gì để sợ. Do đó, chỉ mải mê tiệc tùng không lo việc binh sự. Vì vậy, khi quân Thục lại tiến đánh nước Văn Lang, vua Hùng vẫn đang say sưa trong cơn rượu. Quân Thục đã tiến gần, vua Hùng bất lực phải chạy trốn rồi nhảy xuống sông tự tử. Các tướng lĩnh đầu hàng. Và từ đó, nước Văn Lang đã mất. Giáp Thìn, năm đầu tiên [257 TCN], vua đã bị thuộc về nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc
Mất nước
Vào cuối thời Hồng Bàng, nhà Tần bắt đầu mở rộng lãnh thổ xuống phía nam, xâm lược các tộc Bách Việt. Nước Văn Lang của tộc Lạc Việt đã liên minh với tộc Âu Việt của Thục Phán để cùng nhau chống Tần. Kết quả là cuộc kháng chiến chống Tần đã chiến thắng sau 10 năm. Theo giả thuyết phổ biến nhất, sau khi chiến thắng, Hùng Vương đã thoái vị, Thục Phán - người có công lao lớn nhất trong cuộc chiến - tiếp quản ngôi vị, thống nhất hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt thành nước Âu Lạc. Một giả thuyết khác trong Đại Việt sử ký toàn thư là An Dương Vương chiếm Văn Lang, Hùng Vương thấy nước mất nên tự sát. Theo truyền thuyết, An Dương Vương, cảm kích vì được nhường ngôi, đã thề sẽ tiếp tục và thờ tự các vua Hùng, cho thợ xây cột đá trên núi.
Giả thuyết về 'Hùng Vương thứ 19'
Hùng Vương thứ 18 được cho là có một con trai, người đã kế vị mình (hay Hùng Vương thứ 19 còn được gọi là Hùng Kính Vương). Hùng Vương thứ 19 chỉ cai trị được 6 năm (hoặc 6 tháng) rồi qua đời, vì vậy Hùng Vương thứ 18 lại tiếp tục làm vua.