
Hướng dẫn phân tích đề bài
- Loại bài: Nghị luận
- Yêu cầu: Phân tích và đánh giá một tác phẩm truyện.
- Khái niệm cần làm rõ:
+ Phân tích và đánh giá một tác phẩm truyện là việc trình bày những nhận xét, đánh giá của bạn về nhân vật, sự kiện, chủ đề hoặc nghệ thuật của một tác phẩm cụ thể.
+ Tác phẩm truyện là một loại tác phẩm văn học, sử dụng phương pháp kể chuyện, bao gồm các yếu tố chính như: cốt truyện, bối cảnh, nhân vật,...
Dàn bài chung
Bắt đầu:
Giới thiệu ngắn gọn về tác phẩm (tên, tác giả,…) và ý kiến tổng quan của người viết về tác phẩm. Chia sẻ với độc giả lý do bạn chọn tác phẩm để phân tích, đánh giá, và những điều khiến bạn yêu thích tác phẩm.
Bắt đầu:
- Tóm tắt nội dung chính của truyện
- Phân tích và đánh giá về chủ đề của truyện dựa trên cơ sở từ tác phẩm.
- Phân tích và đánh giá về những nét đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm. Mỗi phân tích và đánh giá cần có những chi tiết tiêu biểu từ tác phẩm.
Phần kết:
Tóm tắt nội dung chính đã được trình bày ở phần thân bài, khẳng định giá trị của tác phẩm, và đưa ra một số ý tưởng mở rộng.
Ví dụ minh họa
Đề 1: Phân tích tác phẩm “Hai đứa trẻ”
a. Các ý chính chi tiết
Bắt đầu:
- Thạch Lam: Một trong những nhà văn tiêu biểu của Tự lực văn đoàn, ông nổi tiếng với việc viết truyện ngắn. Văn chương của Thạch Lam thường được xem là tinh tế và sâu sắc, phù hợp để tinh tế hóa tâm hồn.
- Hai đứa trẻ là một truyện ngắn về tình yêu buồn phù hợp với nhận định trên
Thân bài:
1. Bức tranh phố huyện vào lúc chiều tối
a. Bức tranh về thiên nhiên trong làng vào lúc hoàng hôn:
- Cảnh vật được miêu tả qua góc nhìn của nhân vật Liên
- Âm thanh: Tiếng trống thu không gọi mời chiều về, tiếng ếch nhái kêu râm ran trong đồng ruộng, tiếng muỗi vo ve.
- Hình ảnh, màu sắc: “Phía tây chói lấp như lửa đỏ rực”, “Các đám mây phản ánh ánh hồng như cục than đang tàn phía bên kia”.
- Đường nét: Dãy tre của làng được vẽ rõ nét trên bầu trời.
- Tiết tấu chậm, đầy hình ảnh và âm nhạc phong phú
→ Khung cảnh thiên nhiên buồn bã, đồng thời thể hiện sự cảm nhận tinh tế
b. Cảnh chợ tàn và những số phận người trong làng
- Cảnh chợ tàn:
+ Chợ đã bị bỏ hoang từ lâu, mọi người đã rời khỏi và tiếng ồn ào cũng đã biến mất.
+ Chỉ còn những vụn vặt, vỏ bưởi, vỏ thịt, lá nhãn và lá mía.
- Nhân vật trong câu chuyện:
+ Những đứa trẻ con nghèo đang khám phá, thu nhặt những thứ còn lại tại chợ
+ Mẹ và con của chị Tí: với quầy hàng nước đơn giản, không khách.
+ Bà cụ Thi: có phần mất trí, đi mua rượu vào buổi tối và đi lạc trong bóng tối.
+ Bác Siêu với đầy gánh hàng phở - một món quà quý giá.
+ Gia đình bác xẩm mù sống bằng tiếng đàn và lời ca, dựa vào lòng hảo tâm của người qua đường.
→ Cảnh chợ tàn và số phận của những người nghèo: sự tàn lụi, nghèo đói, và những điều đó làm cho phố huyện trở nên u ám.
c. Tâm trạng của nhân vật Liên
- Cảm nhận sâu sắc: “hương vị riêng của đất, của quê hương này”.
- Nỗi buồn lẻ loi trước cảnh ngày tàn và số phận khốn khó của những người khó khăn:
+ Thương cảm với những đứa trẻ nghèo, không có đủ tiền để chăm sóc.
+ Đau lòng vì hoàn cảnh của mẹ con chị Tí: ngày lao động mệt mỏi, tối bán hàng nước chè mà vẫn khó khăn, đau lòng với bà cụ Thi mắc bệnh tâm thần
→ Tâm hồn nhạy cảm, tinh tế, tràn đầy lòng trắc ẩn và yêu thương con người. Đây là nhân vật mà Thạch Lam sử dụng để thể hiện tâm trạng của mình
2. Bức tranh phố huyện vào buổi tối
a. Sự đối lập giữa “bóng tối” và “ánh sáng”
- Phố huyện về đêm ngập chìm trong bóng tối:
+ “Đường phố và các ngõ con dần dần chứa đầy bóng tối”.
+ “Tối hết con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng càng sẫm đen hơn nữa”.
→ Bóng tối xâm nhập, bám sát mọi sinh hoạt của những con người nơi phố huyện.
+ Ánh sáng của sự sống hiếm hoi, bé nhỏ: khe sánh, quầng sáng, chấm lửa nhỏ, hột sáng…→ ánh sáng yếu ớt, le lói như những kiếp người nghèo khổ nơi phố huyện.
+ Ánh sáng và bóng tối tương phản nhau
→Bóng tối bao trùm trong khi ánh sáng chỉ mong manh, nhỏ bé → kiếp người nhỏ bé sống leo lét, tàn lụi trong đêm tối mênh mông của xã hội cũ.
b. Đời sống của những kiếp người nghèo khổ trong bóng tối:
- Những công việc hằng ngày lặp đi lặp lại:
+ Chị Tí làm việc dọn hàng nước
+ Bác Siêu bán phở nồng nhiệt
+ Gia đình Xẩm ngồi trong nhà rách nát, thau sắt để trước mặt, tiếng đàn bầu vang lên trong im lặng
+ Liên và An trông nom cửa hàng tạp hoá nhỏ
→ Cuộc sống tẻ nhạt, lặp đi lặp lại, không có lối thoát
-Những suy nghĩ cũng lặp đi lặp lại hằng ngày: Mong những người phu gạo, phu xe, mấy chú lính lệ vào hàng uống bát chè tươi và hút điếu thuốc lào.
-Vẫn mơ ước: “chừng ấy người trong bóng tối đang mong đợi một cái gì tươi sáng cho cuộc sống nghèo khổ hàng ngày của họ” → mơ hồ, tội nghiệp
→Giọng văn: chậm buồn, tha thiết thể hiện niềm cảm thương của Thạch Lam với những người nghèo khổ.
3. Hình ảnh chuyến tàu và tâm trạng chờ mong chuyến tàu đêm của Liên và An
- Liên và An thức bởi:
+ Để bán hàng
+ Để được nhìn chuyến tàu đêm đi qua hoạt động cuối cùng của đêm khuya.
- Hình ảnh đoàn tàu xuất hiện với dấu hiệu đầu tiên:
+ Liên cũng trông thấy “ngọn lửa xanh biếc”
+ Hai chị em nghe thấy tiếng dồn dập, tiếng xe rít mạnh vào ghi.
- Khi tàu đến:
+ Các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh cả xuống đường.
+ Những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng.
- Khi tàu đi vào đêm tối:
+ Để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt.
+ Ánh đèn xanh treo phía sau, xa xa rồi khuất sau rặng tre.
→ Đoàn tàu hiện ra với âm thanh sống động và ánh sáng rực rỡ, đem đến phố huyện một thế giới mới lạ, thế giới mà Liên luôn ước mơ.
Kết luận:
- Tóm tắt những đặc điểm nổi bật về nghệ thuật thành công của truyện ngắn.
- Hai đứa trẻ là một ví dụ tiêu biểu cho phong cách văn chương của Thạch Lam: kết hợp hiện thực và lãng mạn, văn phong trong sáng, giản dị nhưng sâu lắng.
b. Các bài văn mẫu tham khảo
Bài làm mẫu số 1
Thạch Lam cây bút văn xuôi lãng mạn tiêu biểu của văn học 1930 – 1945, các sáng tác của ông tập trung đi sâu khai thác vào cuộc sống đời thường, bình dị. Với những tác phẩm thường“truyện không có truyện” nhưng lại để lại những dư âm sâu sắc trong lòng người đọc về vẻ đẹp cuộc sống, tâm hồn con người. Hai đứa trẻ là một tác phẩm mang trong mình vẻ đẹp giản dị, sâu lắng như vậy. Tác phẩm được xuất bản năm 1938 in trong tập Nắng trong vườn. Tác phẩm là lát cắt hiện thực cuộc sống nơi phố huyện nghèo từ khoảnh khắc chiều tàn cho đến đêm khuya. Nhưng với ngòi bút tinh tế, Thạch Lam đã đi sâu khám phá vẻ đẹp của con người, cuộc sống nơi đây.
Mở đầu tác phẩm là khung cảnh thiên nhiên hết sức nên thơ nhưng đượm buồn với tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng, tiếng trống thu không văng vẳng vang lên, tiếng muỗi vo ve khắp nơi. Nếu có âm thanh cất lên cũng không mang lại sự tươi vui, rộn rã, ngược lại chỉ gợi lên sự tĩnh mịch của cảnh và sự ảm đạm của không gian. Gam màu chủ đạo của khung cảnh là màu đỏ như lửa cháy: “Phương tây đỏ rực như cháy và những đám mây hồng như hòn than sắp tàn” . Những Sắc màu này thường gợi lên sức sống, sự ấm nóng như với bức tranh của Thạch Lam Lại chỉ gợi lên sự lụi tàn, mặt trời sắp lặn, những đám mây cũng như hòn than sắp tàn. Sự ảm đạm, buồn rầu bao trùm lên cảnh vật khi bóng chiều dần buông.
Trong không gian của buổi chiều tàn, bức tranh sinh hoạt của con người hiện lên cũng chẳng mấy sáng sủa hơn. Chỉ có một âm thanh duy nhất xuất hiện “tiếng ồn ào cũng mất” khi chợ đã họp và vãn từ lâu, trả lại cho phố huyện sự tĩnh lặng vốn có. Trên nền chợ chỉ còn lại võ thị, vỏ bưởi, lá nhãn, … những thứ người ta bỏ đi sau một buổi chợ phiên. Những đứa trẻ con nhà nghèo vẫn cố tìm tòi, nhặt nhạnh những thứ còn sót lại trên mặt đất. Cuộc sống ở đây không chỉ buồn mà còn nghèo nàn, xơ xác. Không gian ấy khiến ta không khỏi ám ảnh và cảm thương cho những số phận, sinh linh tội nghiệp đang phải sống những ngày mòn mỏi ở nơi đây.
+ Liên, một cô gái trẻ tinh tế và nhạy cảm, nắm bắt những biến chuyển của thiên nhiên trong khoảnh khắc cuối ngày.
+ Cuộc sống nơi phố huyện vẫn tiếp diễn khi màn đêm buông xuống.
- Những người dân phố huyện sống cuộc đời mòn mỏi, tìm kiếm nguồn sáng trong bóng tối.
+ Đoàn tàu vụt qua phố huyện, mang theo niềm vui sướng và ánh sáng tạm thời cho những người mong chờ.
- Truyện ghi lại một cách chân thực và cảm động về mơ ước đổi đời của người dân phố huyện.
+ Trong một truyện ngắn sâu sắc, Thạch Lam thể hiện lòng xót thương với những số phận nghèo khó, đầy đau thương tại phố huyện.
Đề 2: Phân tích tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”
a. Dàn ý chi tiết
Mở bài
- Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được coi là một tác phẩm vĩ đại trong văn học Việt Nam thời đổi mới.
- Tác phẩm mang đậm giá trị nhân văn và những triết lý sâu sắc về cuộc sống thông qua góc nhìn đa chiều của tác giả về mối quan hệ giữa hiện thực và nghệ thuật.
Thân bài
* Tác giả:
- Nguyễn Minh Châu, một trong những nhà văn nổi tiếng với tác phẩm đặc sắc như Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa, Cỏ lau,… được xem là một trong những tài năng hàng đầu của văn học Việt Nam thời đổi mới.
- Tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa ra đời vào tháng 8 năm 1983, được in trong tập Bến quê (1985).
* Tình huống bất ngờ và hai phát hiện của Phùng:
- Phát hiện cảnh đắt trời cho:
+ Chiếc thuyền lưới vó cập bến dưới ánh nắng hồng hồng mờ ảo - Bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ.
+ Vẻ đẹp toàn bích toàn diện khiến Phùng bối rối, ngỡ ngàng và hạnh phúc.
+ Vẻ đẹp của nghệ thuật là vẻ đẹp của đạo đức.
- Phát hiện thứ hai – Nghịch lý cuộc sống, vẻ xấu xí sau cái hoàn mỹ, toàn bích:
+ Người đàn bà xấu xí bước ra
+ Cảnh người chồng bạo lực người vợ, cảnh con đánh bố, cảnh bố đánh con
+ Phùng vỡ lẽ hóa ra ranh giới giữa cái vẻ đẹp toàn mỹ, toàn bích và sự thật nghiệt ngã xấu xa của cuộc sống chỉ cách nhau một bức màn mỏng manh, chúng chẳng thể chịu được sự tàn phá của hiện thực cuộc đời đầy xấu xí.
* Nhân vật người đàn bà làng chài –Trung tâm câu chuyện:
- Hiện thân chung cho sự khốn khổ của những người phụ nữ miền biển, chị mang trên mình ba nỗi đau lớn:
+ Ngoại hình xấu xí: Cao to, thô kệch, mặt rỗ,…
+ Nghèo túng, đông con, thuyền chật
+ Bị bạo hành gia đình, phải nhẫn nhục chịu đựng, tổn thương cả về thể xác lẫn tinh thần dai dẳng.
- Những vẻ đẹp của người phụ nữ đằng sau lớp vỏ xấu xí, khốn khổ:
+ Sự thông cảm, lòng biết ơn với người chồng vũ phu, luôn tự nhận lỗi về mình.
+ Tình mẫu tử cao quý, hi sinh tận tụy, chỉ sống vì con cái, luôn nhớ về những khoảnh khắc gia đình hòa thuận.
+ Tâm trạng thấm thía, lý tưởng cao đẹp, thể hiện sự ngây thơ và đơn giản trong quan điểm sống của Phùng và Đẩu, giúp họ hiểu biết sâu sắc về cuộc sống thực tế.
* Nhân vật Phùng:
- Nhận ra rằng chỉ có lòng tốt và luật pháp mới có thể giải phóng con người khỏi nghèo đói, khỏi bạo lực gia đình.
- Hiểu được rằng không thể đánh giá toàn diện sự việc chỉ từ một góc nhìn một chiều, mà cần phải sử dụng cái nhìn đa chiều, sâu sắc để suy ngẫm và tìm hiểu.
Kết luận
- Nguyễn Minh Châu nhận thức rõ rằng “Ngọc không phải lúc nào cũng sáng, cuộc đời đa sắc”, không phải mọi thứ đều hoàn mỹ và tuyệt vời, điều đó chỉ là vẻ bề nổi, bên dưới là những sự thật khắc nghiệt.
- Nhà văn cần phải có cái nhìn đa chiều, thông thái để nhận biết những giá trị đạo đức và nhân văn, không nên theo đuổi những vẻ đẹp chỉ có bề nổi, hào nhoáng nhưng thiếu lòng nhân sinh.
b. Các bài văn mẫu tham khảo
Bài mẫu số 1
Nguyễn Minh Châu (1930-1989) là một nhà văn sử thi lãng mạn. Trước năm 1975, ông chủ yếu viết về đề tài người lính. Sau 1980, ông chuyển sang sâu hơn với cảm hứng và triết lý đời sống.
Nguyễn Minh Châu mô tả thiên nhiên mê hoặc và quyến rũ, thu hút những người biết trân trọng cái đẹp. Trong chuyến đi thực tế, ông chụp được bức tranh tuyệt vời về chiếc thuyền ngoài xa.
Tác giả đưa ra tranh vẽ tuyệt vời kết hợp với cuộc sống nhiều đau thương của một gia đình làng chài. Ông tập trung vào người phụ nữ vô danh, xấu xí nhưng biết yêu thương và hy sinh cho gia đình.
Người nghệ sĩ đặt câu hỏi về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống qua những trải nghiệm đầy nghịch lý.
Tác giả còn xây dựng chân dung nhân vật Phùng. Phùng là người nghệ sĩ tài năng, say mê cái đẹp và trách nhiệm với nghề. Phùng có tấm lòng nhân hậu, thương người khi chứng kiến và sẵn sàng giúp đỡ người đàn bà xa lạ chịu bất công. Tuy không chấp nhận cái xấu nhưng Phùng lại chưa đủ sâu sắc lẽ đời. Phùng từng là người lính chiến đấu giải phóng miền Nam khỏi quân xâm lược nhưng lại không thể nào giải phóng được số phận của người đàn bà bất hạnh.
Làm thế nào để đem lại cái phần thiện trong người đàn ông ấy (chồng người đàn bà hàng chài). Trong một gia đình như gia đình vợ chồng làng chài, những đứa trẻ như chị Phác, cậu bé Phác lớn lên và sẽ thành người như thế nào?Những người nghệ sĩ như Phùng, những nhà quản lí xã hội như Đẩu sẽ làm gì để cuộc sống bớt đi những mảnh đời như vậy? Qua câu chuyện của người đàn bà, Phùng càng thấm thía: không thể đơn giản trong cái nhìn về cuộc đời và con người.
Chiếc thuyền ngoài xa, với việc xây dựng tình huống truyện độc đáo, mới lạ, mang ý nghĩa khám phá, và cách trao ngòi bút cho nhân vật kể chuyện (nhân vật Phùng) đã để lại ấn tượng sâu đậm. Tác phẩm đã đem đến cho người đọc những chiêm nghiệm thú vị về cuộc đời, con người và cả nghệ thuật.
Đề 3: Phân tích tác phẩm “Hạnh phúc của một tang gia”
a. Dàn ý chi tiết
Mở bài:
- Giới thiệu đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia nằm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
Thân bài:
1. Nhan đề Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
- Một nhan đề lạ lùng, mang đến sự chú ý cho người đọc
- Hạnh phúc, tan gia là chết mà sao hạnh phúc
- Một tình huống trào phúng chủ yếu của tác giả
2. Niềm hạnh phúc của mọi người trong gia đình khi cụ cố tổ chết
- Niềm vui chung là được chia tài sản của những người trong gia đình
- Đối với mỗi người thì có niềm vui riêng như: diễn trò già yếu, được chia thêm tiền, diện váy đẹp,.
- Đối với người ngoài: được xem đám tang, được nhìn cô Tuyết,…
3. Cảnh đám tang:
- Đám tang diễn ra nhố nhăng, lố bịch
- Có sự mâu thuẫn giữa bên ngoài và sự thật bên trong
- Phê phán thói khoe khoan, lối sống bất cần, ô nhục của một gia đình
. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về Hạnh phúc của một tang gia trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
b. Các bài văn mẫu tham khảo
Bài làm mẫu số 1
Được gọi với cái tên ông vua phóng sự đất Bắc, Vũ Trọng Phụng là nhà văn yêu thích của không chỉ rất nhiều độc giả mà còn với nhiều văn nghệ sĩ trong văn đàn Việt Nam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông chính là tác phẩm Số đỏ. Số đỏ là tiểu thuyết được Vũ Trọng phụng viết năm 1936, được coi là một kiệt tác của văn học trào phúng. Ta có thể tìm hiểu điều đó rõ nhất qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia.
Ngay từ cái tiêu đề người đọc có thể nhận thấy một sự mâu thuẫn rõ ràng: tang gia nhưng lại hạnh phúc. Đây quả là một nghịch lí. Nhưng nếu đọc truyện thì lại thấy tiêu đề này vô cùng hợp lí. Cái mà xã hội vốn coi là nghịch lí lại trở thành rất hợp lí trong gia đình đại bất hiếu này.
Bối cảnh của đoạn trích là sự ra đi của ông cụ tổ là bố của cụ cố Hồng, đã ngoại tám mươi tuổi và nay ra đi bởi vì uất ức trước việc cháu rể chồng của cụ ngoại tình. Theo lẽ thường cái chết của người có địa vị nhất nhà, người đóng vai trò là điểm tựa tinh thần vững chắc cho các thế hệ thành viên trong gia đình sẽ làm đau đớn, tan nát trái tim của con cháu. Nhưng ở đây, cái chết của cụ cố tổ dường như lại chính là niềm mong đợi mòn mỏi của các thành viên từ rất lâu. Như một nhà quay phim, ống kính của tác giả quay cận cảnh từng nhân vật một. Mỗi nhân vật lại có một hạnh phúc riêng, một niềm vui khôn tả:
Cụ cố Hồng hạnh phúc vì sẽ được mọi người trọng vọng về tuổi thọ của người con giai nhớn là “cố Hồng”. Dù vẫn còn trẻ chưa đến cái tuổi “thọ” nhưng cụ luôn thích được mọi người trọng vọng, kính nể, thích được tôn sùng như một vị cụ cố đức cao trọng vọng. Hẳn rồi, bố mình chết thì mình dĩ nhiên trở thành người địa vị lớn nhất nhà, không cố thì còn là gì nữa. Ông Văn Minh thì mừng vì đây là thời kì cái chúc thư đi vào thời kì thực hành. Ông nội mất thì cái sản nghiệp của ông mới được chính thức để lại cho con cháu mà người cháu trai này hẳn đang sốt ruột như ngồi trên tổ kiến mong chờ nó được thực hiện.
Cô Tuyết thì vui mừng vì đây là cơ hội trưng diện y phục mốt nhất trước mặt người yêu cùng mọi người. Với cái vẻ đẹp xuân sắc cùng sự giàu có của gia đình, cô có thể sắm những bộ cánh điệu đà để Xuân tóc đỏ cùng mọi người ngắm nhìn sự thơ ngây của mình.
Với cậu Tú Tân thì đây là cơ hội để cậu điều khiển các nhà tài tử điện ảnh thi thố tài năng trước mắt mọi người. Thời điểm đương thời, có được những chiếc máy chụp hình đã không phải những gia đình tầm thường, giờ đây cậu lại có thể khoa chân múa tay yêu cầu cả một nhóm thợ phải chụp kiểu này kiểu kia, góc này góc khác, quả như một nhiếp ảnh gia tầm cỡ, đầy nghệ thuật. Có vẻ như gia đình nhà cụ cố tổ ai cũng theo đuổi những nét đẹp nghệ thuật hiện đại và đời mới nhất.
Ông Phán mọc sừng thì mừng bởi cuộc thương thảo với Xuân tóc đỏ đã kết thúc tốt đẹp, đúng như ông mong đợi, thành công mỹ mãn. Ông vừa có thể công khai cho gia đình nhà vợ cái hãnh diện vì mình được là một người chồng mọc sừng, có thể vạch trần cô vợ lăng loàn Hoàng Hôn. Cái vụ thương thảo mà ông đã mất tiền túi giờ đây lại phát huy tác dụng còn hơn cả mong đợi, làm cho tất cả mọi người đều biết, làm cụ cố tổ tức đến nỗi chết vì uất.
Đối với bạn của cụ cố Hồng, đây là cơ hội trưng diện các kiểu râu và các loại mề đay, “Bắc Đẩu Bội Tinh, Long Bội tinh, Cao Mên Bội tinh, Vạn Tượng Bội tinh…”. Không phải bỗng dưng mà trời cho cơ hội để khoe những cái đó với bàn dân thiên hạ, vậy thì giờ đây, cả thiên hạ sẽ phải nhìn vào những huân chương của các ông. Đồng thời đây cũng là cơ hội để họ chen nhau đi gần quan tài để nhìn bộ ngực của cô Tuyết qua làn áo voan của bộ váy ngây thơ.
Đối với đám bạn của con cháu: bà phó Đoan, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, cô Tuyết… gồm toàn giai thanh gái lịch, nam thanh nữ tú của đô thành nhưng họ đi ở đây là để trưng diện những bộ cánh hiện đại nhất, đám tang sẽ là một sân khấu lớn và họ sẽ là những người mẫu thời trang catwalk trên sàn diễn của mình. Đây cũng là cơ hội để họ chim chuột nhau, cười tình với nhau, bình phẩm chê bai nhau.
Cả đám tang liên tục xuất hiện điệp khúc “đám cứ đi”, diễn tả một sự tiếp diễn bất tận, cái sự việc đưa một đám tang như một con đường trải thảm đỏ để người ta bước đi trình diễn trong sự trầm trồ ngắm nhìn của mọi người.
Cảnh hạ huyệt là lúc hội tụ đầy đủ nhất sự giả dối vô đạo đức cũng là lúc mà các vai hề diễn xuất một cách tài tình nhất (cảnh hề ấy lại gợi liên tưởng tới đám ma của Gorio trong tác phẩm của Balzac), nào là người gục người quỳ người gào khóc, tất cả theo đúng sắp xếp của cậu Tú Tân để cậu thực hiện bộ ảnh trong những phút giây để đời. Đến ông cháu rể Phán mọc sừng cũng nghẹn ngào tiếng khóc “Hứt! Hứt Hứt” giống với mong muốn hất hất hất đất vào huyệt của ông.
Đám tang đã diễn ra theo đúng quá trình và đạt được kết quả viên mãn, đúng với mong đợi của mỗi người. Ai cũng thấy khấp khởi mừng thầm vì cơ hội trời ban và họ đã đạt được đúng nỗi niềm mong mỏi khi giữa cái đám danh giá nhất thì họ đã được phô trương những thứ mà mình muốn khoe.
Tựa truyện ban đầu có vẻ không thực sự, nhưng lại phản ánh sự thật sâu xa. Mỗi người đều có những niềm hạnh phúc riêng biệt, không hề kỳ quặc hay giả tạo. Đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia và tác phẩm Số đỏ đã phơi bày sự phản chiếu của nền văn minh phương Tây và xu hướng Âu hóa, nhưng thực sự đây là việc phơi bày những bất cập và tiêu cực trong xã hội thị thành. Bên cạnh đó, tác phẩm cũng đề cập đến hiện thực xã hội Việt Nam trước cách mạng, một xã hội hỗn loạn và rối bời. Người không học vấn nhưng thông minh lại được coi trọng, một người đàn bà hư hỏng lại được coi là một tấm gương của đức hạnh, một gia đình bị hủy hoại đạo đức nhưng được xem là một mẫu mực của xã hội.