
Hướng dẫn phân tích để bài
-Dạng bài: Nghị luận
-Yêu cầu: Phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ.
-Khái niệm cần được làm sáng tỏ:
- Phân tích: Tách biệt thực tế hoặc tưởng tượng một đối tượng ra thành các yếu tố để hiểu rõ hơn về nó
- Đánh giá: Đưa ra nhận định dựa trên những nhận xét để đánh giá giá trị
- Thơ (thơ ca hay thi ca) là khái niệm chỉ các dạng sáng tác văn học có vần điệu, ngắn gọn, súc tích, và nhiều ý cô đọng. Một bài văn có thể trở thành một bài thơ nếu việc lựa chọn từ ngữ súc tích và gây cảm xúc cho độc giả một cách nhanh chóng.
- Phân tích, đánh giá một bài thơ: Là dạng bài nghị luận văn học sử dụng lý lẽ và bằng chứng để làm rõ giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ đó.
Cấu trúc tổng quan
1. Bắt đầu:
– Giới thiệu vắn tắt về tác giả: tên, bút danh, vai trò trong văn học, chủ đề và phong cách sáng tác, ảnh hưởng của tác giả đối với văn học, thời kỳ và văn hóa dân tộc.
– Tổng quan về bài thơ: tình hình sáng tác, ý nghĩa chính, nội dung chính của đoạn thơ/bài thơ. Trích dẫn đoạn thơ, bài thơ cần phân tích: nếu là ngắn thì trích dẫn, nếu dài thì cần ghi lại toàn bộ.
2. Phần chính:
– Tổng quan về vị trí trích đoạn hoặc cấu trúc, dòng cảm xúc chính của đoạn thơ, bài thơ.
– Giới thiệu các vấn đề cần thảo luận và hướng đi của cuộc luận điểm.
– Phân tích bài thơ/đoạn thơ: trích thơ và sau đó phân tích từng từ ngữ, hình ảnh, kỹ thuật văn chương, và những yếu tố khác trong từng câu thơ, hiểu đúng nghĩa của chúng để giúp người đọc nhận biết được các điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Ghi chú: Khi phân tích, hãy đi từ các phương diện nghệ thuật đến nội dung, và luôn dựa vào từ ngữ có trong bài thơ, ngữ cảnh sáng tạo, và phong cách tác giả để tránh việc suy diễn không chính xác hoặc mơ hồ:
- Phân tích khổ thơ thứ nhất :
+ Trình bày tổng quan về nội dung chính của khổ thơ đầu tiên:
(Trích từ thơ…)
+ Sử dụng các kỹ thuật phân tích thơ để phân tích các hình ảnh, từ ngữ, các phương tiện nghệ thuật ngôn từ, nhịp điệu, và nhiều hơn nữa trong từng câu thơ; giải thích ý nghĩa của từng từ ngữ, hình ảnh đó và nhấn mạnh điểm đặc biệt của chúng.
+ Liên kết và so sánh với các bài thơ cùng chủ đề.
+ Chuyển sang phân tích khổ thơ thứ hai.
- Phân tích khổ thơ thứ hai:
+ Thực hiện bốn bước tương tự như khi phân tích khổ thơ thứ nhất.
+ Tiếp tục quá trình như vậy cho đến khi kết thúc bài thơ.
(Chú ý: Có thể đôi khi phân tích được hai khổ thơ cùng một lúc nếu chúng có cùng ý nghĩa)
– Đưa ra nhận xét và đánh giá về bài thơ:
+ Đánh giá về nội dung, tư tưởng của bài thơ. (Nét đặc sắc về nội dung của bài thơ là gì? Thành công/hạn chế?)
+ Đánh giá về nghệ thuật. (Thành công/hạn chế?)
+ Đánh giá về phong cách tác giả. (Qua bài thơ em thấy tác giả là người như thế nào; có thể nói thêm những đặc điểm về phong cách nghệ thuật và đóng góp của nhà thơ trên văn đàn lúc bấy giờ).
3. Tổng kết:
+ Tóm tắt lại toàn bộ giá trị về nội dung, nghệ thuật của bài thơ.
+ Kết nối với bản thân và cuộc sống (nếu có).
Ví dụ minh họa
1. Phân tích bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy
a.Dàn bài chi tiết
Bắt đầu
Trong thơ từ lâu, trăng luôn là một đề tài đầy sức lôi cuốn.
Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy vẫn mãi làm say đắm lòng người, mang đến những cảm xúc mới lạ, sâu sắc và ý nghĩa sâu xa.
Bài thơ chính
a. Tác giả và tác phẩm:
- Nguyễn Duy, tên thật Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, là một nhà thơ chiến sĩ, từng cống hiến trong cuộc chiến chống lại Mỹ. Tác phẩm nổi bật của ông là bộ thơ Ánh trăng.
- Bài thơ Ánh trăng được sáng tác tại thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1978, ba năm sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng và thống nhất đất nước.
b. Phân tích:
- Trong khổ thơ 1 và 2, ta cảm nhận được những kỷ niệm từ quá khứ, sự liên kết chặt chẽ của vầng trăng với mỗi bước chân của nhà thơ trong cuộc hành trình cuộc đời.
+ Từ những ngày thơ ấu, với niềm đam mê với ruộng đồng, dòng sông.
+ Lớn lên, với những trận chiến, những kỷ niệm gắn bó sâu đậm với rừng rậm.
- Trong suốt quãng thời gian đó, vầng trăng luôn bên cạnh và được nhà thơ coi như là người bạn đồng hành trung thành, không bao giờ quên.
- Ở khổ thơ 3: Sự biến đổi của cuộc sống khiến con người lãng quên những kỷ niệm xưa. Bị cuốn vào cuộc sống hiện đại, xa lạ với thiên nhiên, người ta mất đi liên kết với vầng trăng.
+ Vầng trăng trở thành một người lạ, bị bỏ quên bởi sự vô tình của con người.
- Ở khổ thơ cuối cùng: Một tình huống bất ngờ và cuộc gặp lại với vầng trăng đã diễn ra.
+ Sự cố mất điện, đã dẫn đến một cuộc gặp gỡ đầy xúc động giữa nhà thơ và vầng trăng.
+ Ký ức tràn về, vầng trăng tri kỷ với cánh đồng, con sông, những ngày gian khổ chiến đấu, những kỷ niệm không bao giờ phai nhạt. Điều đó khiến nhà thơ rơi vào cảm xúc sâu lắng và rưng rức nước mắt.
- Ở khổ thơ cuối cùng: Sự tỉnh táo của tâm hồn
+ Vầng trăng tròn và rõ ràng, tựa như một biểu tượng không lời, đối diện mà người lính phải đối mặt và cảm thấy xấu hổ.
→ Một bài học về việc giữ vững những kỷ niệm, những tình cảm trong cuộc sống, và nhớ rằng quên đi là một sự vô tình đáng trách.
Điểm dừng
Bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy dù sử dụng câu từ đơn giản, mộc mạc nhưng chứa đựng những ý nghĩa sâu sắc, là một bài học về việc giữ vững những kỷ niệm về tình thương trong quá khứ, là tấm gương về lòng biết ơn và nhân ái, luôn trân trọng và biết ơn những người và những điều đã từng có trong cuộc đời.
b.Các bài văn mẫu tham khảo
Ví dụ mẫu số 1
Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ của thế hệ đã trải qua cuộc chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Bài thơ “Ánh trăng” được sáng tác vào năm 1978, ba năm sau khi miền Nam được giải phóng, nhằm thể hiện tâm trạng và suy tư về việc một số người vẫn nhớ những mất mát trong quá khứ, trong khi một số khác lại lãng quên.
Điều đặc biệt của bài thơ này là việc kể chuyện bằng những từ ngữ giản dị, mộc mạc nhưng chứa đựng nhiều tình cảm và suy tư sâu sắc. Câu chuyện về mối quan hệ giữa nhà thơ và vầng trăng được diễn tả một cách đầy xúc cảm: từ tuổi thơ ở làng quê gần biển đến những ngày chiến tranh sống trong rừng, vầng trăng luôn là một tri kỷ gần gũi, thân thiết.
“Hồi bé sống bên cánh đồng
và dòng sông, biển bao la
thời chiến, rừng xanh bao la
vầng trăng tri kỷ dường như.”
Với tự nhiên sống chân thật
hồn nhiên như cây cỏ mát
ngờ đâu quên được đâu
vầng trăng tình bạn thân thiết.”
Kỷ niệm tuổi thơ, sống với làng quê và ánh trăng sáng. Lúc ấy, người ta trong trẻo, không ám ảnh bởi gì. Trăng là một phần của tự nhiên, gắn kết với cuộc sống con người. Trăng lên và trăng trôi mang theo biết bao ước mơ, chứa đựng biết bao tâm tư tình cảm. Trăng và con người như hình với bóng, không thể tách rời.
Trong những năm tháng gian khổ, thời chiến tranh, “vầng trăng tri kỷ” luôn ở bên, soi đường đi, soi giấc ngủ. Mối liên kết giữa trăng và con người đặc biệt, trăng là người bạn tri âm tri kỷ, đồng chí cùng chia sẻ niềm vui buồn trong chiến trận với quân lính, của nhà thơ.
Hành quân giữa đêm, trên những con đường gồ ghề ra mặt trận, những phiên gác giữa rừng đêm lạnh lẽo, những đêm yên bình dưới bầu trời đen nhánh, quân lính luôn có vầng trăng bên cạnh. Trăng ở đó, là bạn đồng hành, cùng chia sẻ mọi khó khăn của cuộc sống chiến đấu, cùng chia sẻ niềm vui chiến thắng, cùng xúc động, lo lắng, bi thương mỗi khi nhớ nhà, nhớ quê…
Trăng đã cùng con người vượt qua biết bao khó khăn, từ đầu đến đuôi cuộc sống. Vì thế, người lính xúc động biết bao, tự hứa sẽ “không bao giờ quên vầng trăng tri âm tri kỷ” ấy. Khi chiến tranh kết thúc, trở về sống ở thành phố, cuộc sống mới khiến con người cũng thay đổi:
“Trở về thành phố sau bao gian nan
quen với ánh đèn sáng lung linh
vầng trăng qua ngõ nhỏ
như người lạ đi ngang qua.”
Cuộc sống tiện nghi, phong phú, khác biệt so với quãng thời gian trước đó đã khiến con người quên hẳn người bạn tri âm tri kỷ, người đồng bào chân thành ngày xưa. Bây giờ, vầng trăng qua ngõ nhỏ lạnh lùng và xa lạ như người xa lạ đi qua. Vầng trăng vẫn tròn đầy, vẫn trung thành tri âm tri kỷ, nhưng con người đã quên mất trăng, lãnh đạm, lạnh lùng, dửng dưng đến tận lạnh người. Vầng trăng hiện nay bỗng trở thành người xa lạ, không ai nhớ, không ai quan tâm.
Sự cố mất điện khôi phục lại biết bao kỷ niệm, khiến con người đối mặt lại với tình huống giống như ngày xưa, vầng trăng sáng hiện lên đánh thức kí ức và làm con người tỉnh táo, nhận ra sai lầm của mình:
“Bỗng chốc đèn điện tắt sáng
phòng buồn tối om kín
mở cửa sổ vội vàng
vầng trăng tròn bất ngờ.”
Con người đối mặt với vầng trăng trong một tình huống bất ngờ. Chính sự bất ngờ đó khiến con người sống thực với chính mình, sống thực với nguồn gốc của sự sống. Giọt nước mắt lăn trên khóe mắt không chỉ là sự xúc động sâu xa mà còn là niềm hối tiếc, sự ân hận bất tận, cay đắng của nỗi đau:
“Ngửa mặt nhìn trăng
Mắt ướt đẫm nước
Như đồng như biển
Như sông như rừng.”
‘‘Ngửa mặt nhìn trăng” được hiểu là nhìn lại bản thân và nhận ra lỗi lầm, nhận ra mình đã thay đổi, đã quên đi những thời gian gian khổ mà tình nghĩa, những đau khổ, hy sinh,… Những giọt nước mắt thể hiện sự thức tỉnh và hối tiếc của nhà thơ. Thực ra, có thể hiểu là “lòng ướt đẫm nước “chứ không phải là mắt rưng rưng”, những giọt nước mắt trong tâm hồn sâu thẳm của con người có sức lay động nhiều hơn những giọt nước mắt trên bờ mi.
Và nhà thơ đã “bừng tỉnh” mặc dù trăng đã lặn. Người bạn tri âm ấy không cần phải nói, vẻ đẹp của người bạn đồng đội đã làm nhà thơ tỉnh táo. Con người có thể nhìn thấy qua “trăng” những khuôn mặt của người bạn đồng đội xưa. Với một số người, đó có thể là hình ảnh của tuổi thơ. Với một số khác, đó có thể là hình bóng của những ngày hạnh phúc đã qua. Riêng với nhà thơ, đó chính là khuôn mặt của đồng đội trong những tháng năm đạn bom khốc liệt.
Nhà thơ “bừng tỉnh” trước sự suy thoái về đạo đức, về lối sống của xã hội, trong đó có chính bản thân mình: có đèn điện, quên vầng trăng; có hòa bình, quên đi quá khứ chiến tranh. Do đó, lời tự thú chân thành của tác giả chính là lời nhắc nhở về thái độ, tình cảm đối với quá khứ gian khổ, tình nghĩa và đối với thiên nhiên, đất nước bình dị, thân thương.
Kết hợp với bài hát “Bài ca không quên” của nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn, thi phẩm “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy gợi nhớ tới lẽ sống “uống nước nhớ nguồn”, lòng hiếu thảo - truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. Chắc chắn rằng, mỗi người chúng ta đều có những lý do riêng để giải thích tại sao mình lãng quên một điều thiêng liêng nào đó; hãy thành tâm suy nghĩ và nhận thức giá trị của bài thơ này. Đó chính là giá trị nhận thức mà văn học mang lại.
Với lối diễn đạt tình cảm tự nhiên, hình ảnh giàu biểu cảm, Ánh trăng của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng khó khăn đã qua trong cuộc đời của người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ gợi nhớ ý thức, củng cố ở người đọc tinh thần “uống nước nhớ nguồn”, lòng hiếu thảo đối với quá khứ.
Văn bản mẫu số 2
“Văn chương đích thực dù xuất hiện ở bất kỳ thời đại nào cũng đóng góp vào việc mở rộng, chỉ đạo giá trị cuộc sống cho con người hiện tại.” Thực sự, mỗi tác phẩm văn học mang theo những bài học về con người sâu sắc và tác phẩm “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy cũng là một tác phẩm văn học đích thực khi truyền đạt đến bạn đọc những bài học có ý nghĩa vô biên - bài học về lòng hiếu thảo, lòng trung thành.
Tác phẩm “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác vào năm 1978, thời điểm đất nước đã giành được độc lập được khoảng ba năm. Sau những thời kỳ chiến đấu đầy gian khổ, khi sống trong thời gian hòa bình, tự do, con người thường dễ quên đi những quá khứ đầy khó khăn và tình nghĩa của một thời. Đó là lý do tại sao, để nhắc nhở bản thân và mọi người, Nguyễn Duy đã sáng tác bài thơ này.
Bắt đầu tác phẩm, tác giả đưa người đọc trở về sống trong những ngày tháng quá khứ với những kỷ niệm không phai:
“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với biển
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”
Sự xuất hiện của những hình ảnh “đồng”, “sông”, “biển”, “rừng” gợi cho ta liên tưởng đến khoảng không gian rộng lớn, phong phú. Không gian đó ngày càng mở rộng trước mắt chúng ta. Cùng với đó là sự trưởng thành của nhân vật trữ tình. Mới đây chỉ là một đứa trẻ vô tư vui đùa trên đồng ruộng và bên bờ sông của quê hương nhưng giờ đây đã trở thành người lính trưởng thành sẵn sàng đối mặt với gian nan của chiến tranh. Gắn bó thân thiết với đồng đội, “vầng trăng trở thành tri kỷ”, luôn bên cạnh, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn cùng đồng đội trong những đêm dài trên chiến trường. Do đó, những người lính xưa đã từng khẳng định:
“ngỡ không bao giờ quên
cái vầng trăng tình nghĩa”
“Ngỡ” có nghĩa là nghĩ, là tin, là tưởng. Nói điều này cho thấy người lính luôn tin tưởng rằng tình cảm gắn bó giữa mình và trăng sẽ mãi bền chặt, không thể tách rời. Tuy nhiên, ngỡ không bao giờ quên đồng nghĩa với việc đã có lúc trót quên. Câu thơ mang chút bi thương, xót xa vì những tình cảm gắn bó tưởng chừng sẽ không bao giờ thay đổi nhưng giờ đây đã thay đổi. Hồi ức về quá khứ kết thúc nhưng cũng mở ra một khía cạnh mới, tạo ra bước đi để thể hiện được tư tưởng của bài thơ.
Chiến tranh kết thúc, người lính rời xa núi rừng gian khổ về với cuộc sống phố phường hiện đại, nơi có “ánh điện”, “cửa gương” xa hoa, hào nhoáng. Cuộc sống ấy hoàn toàn đối lập với cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn trước đây của người lính. Nhưng sự thay đổi về hoàn cảnh sống ấy lại tới một sự đổi thay khác – sự đổi thay trong lòng người:
“vầng trăng đi qua ngõ
như người dưng qua đường”
“Người dưng” là người xa lạ không quen biết và đau đớn hơn là người dưng ấy lại đã từng là tri kỷ một thời. Thế mới biết sức mạnh cuộc sống vật chất ghê gớm đến mức độ nào. Nó có thể làm thay đổi cả lương tâm con người. Quên đi trăng đồng nghĩa với việc người lính đã quên đi quá khứ gian lao mà nghĩa tình, quên đi mất mát hi sinh của dân tộc, quên đi chính bản thân mình với những lý tưởng cao đẹp của một thời tuổi trẻ. Thế nhưng, một tình huống đã xảy ra:
“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn – đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn”
Từ láy “đột ngột” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh thái độ ngạc nhiên, ngỡ ngàng của người lính khi gặp lại vầng trăng tròn vành vạnh trên bầu trời thành phố. Có thái độ ấy còn bởi vì bấy lâu nay người lính đã quên trăng, coi trăng là xa lạ nhưng vầng trăng vẫn hiện diện, vẫn thủy chung với con người một cách vẹn nguyên như thuở còn gian khó. Trong giây phút gặp lại “cố nhân” ấy, người lính có hành động “ngửa mặt lên nhìn mặt”. Tác giả không viết “ngửa mặt lên nhìn trăng” bởi lẽ ông đã thực sự coi trăng là một con người trong cuộc hội ngộ không hẹn trước. Chính trong lúc ấy, nhà thơ lại thấy “rung rung” bao nỗi niềm xúc cảm, muốn nói mà chẳng thể cất thành lời. Một lần nữa , các hình ảnh “đồng”, “sông”, “rừng”, “biển” lại một lần nữa xuất hiện mở ra những trang ký ức quá khứ nghĩa tình năm xưa. Trăng giờ đây hiện lên là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, đất nước; cho một thời quá khứ nghĩa tình; cho một thời tuổi trẻ với bao lí tưởng sống tốt đẹp.
Đoạn thơ cuối kết tinh những suy ngẫm của người lính về vầng trăng:
“Trăng cứ tròn vành vạnh
kể chi người vô tình
ánh trăng im phăng phắc
đủ cho ta giật mình.”
Cấu trúc “cứ…kể chi…” gợi ra hình ảnh người và trăng trong trạng thái đối lập tương phản” trăng mãi thủy chung, nguyên vẹn dù con người có bội bạc, lãng quên. Nghệ thuật nhân hóa góp phần nhấn mạnh vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên đất nước. Trong cuộc gặp gỡ, trăng không một lời trách mắng mà chỉ “im phăng phắc”. Phép nhân hóa khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của vị quan tòa tuy bao dung độ lượng nhưng vô cùng nghiêm khắc khiến con người phải giật mình. Cái “giật mình” ở đây là cái giật mình đầy ý nghĩa. Người lính “giật mình” là bởi đã nhận ra được lỗi lầm của bản thân, những vô tình, sai phạm đáng trách. “Giật mình” còn do sự ăn năn, hối lỗi, xấu hổ trước vầng trăng tình nghĩa vẫn vẹn nguyên, tự thấy bản thân cần phải thay đổi cách sống. Có được những giây phút như vậy, con người sẽ sống trong sáng hơn, lương thiện hơn, tốt đẹp hơn. Bài thơ đi dần về những triết lí sâu sắc của cuộc đời. Nó là lời nhắc nhở ta về một đạo lí sống từ ngàn xưa của dân tộc ta – lối sống ân nghĩa, thủy chung, uống nước nhớ nguồn. Ta không được phép quên đi những mất mát hi sinh của những người đi trước, những người đã hi sinh mồ hôi và xương máu cho chúng ta ngày nay được hưởng một cuộc sống bình yên, độc lập. Bởi thế, mỗi người đặc biệt là thế hệ trẻ phải biết sống có trách nhiệm, sống sao cho xứng đáng với những gì mình được hưởng.
Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên của mỗi khổ khiến dòng cảm xúc liền mạch tạo cho bài thơ dáng dấp như một câu chuyện kể theo trình tự thời gian, kéo dài từ quá khứ đến hiện tại. Tác giả xây dựng được hình tượng vầng trăng giàu ý nghĩa biểu tượng, từ đó giúp nhà thơ truyền tải những thông điệp sâu sắc đến bạn đọc. Bài thơ không chỉ là câu chuyện của riêng tác giả mà là cả với những thế hệ đã từng đi qua chiến tranh, những ngày tháng gian lao mà nghĩa tình.
Đi qua ngày tháng bom rơi đạn lửa, con người ta sống trong thời bình bởi vậy mà dễ dàng quên đi một thời đã qua. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có giá trị muôn thời là bởi vậy. Nó đã định hướng một lối sống tình nghĩa, thủy chung không chỉ với thế hệ khi ấy mà cả hiện tại và mai sau
2. Đánh giá bài thơ “Tràng Giang” của Huy Cận
a. Phân tích chi tiết
Bắt đầu
Giới thiệu về tác giả Huy Cận và tác phẩm “Tràng giang”
Phần chính
- Bối cảnh sáng tác của “Tràng giang”: Vào tháng 9 năm 1938, trong một chiều buông, tác giả đi xe đạp tới bến Chèm để nhìn dòng sông Hồng cuồn cuộn.
- Ý nghĩa của tiêu đề bài thơ và lời đề từ: Phản ánh vẻ trang trọng, cổ kính của ngôn ngữ Hán - Việt. Mô tả cảnh sông nước mênh mông, tình cảm của con người sâu sắc.
- Khổ thơ 1:
+ Với từ “điệp điệp” kết hợp với trạng thái buồn: Nỗi buồn lan tỏa như những đợt sóng trên dòng sông.
+ Con thuyền “trôi theo dòng nước mặc dù lành lạnh” và “Thuyền quay về, buồn đến nỗi trăm ngả”: Màu sắc của sự chia ly buồn bã, nhưng các hiện tượng tự nhiên dường như lặng lẽ theo cảm xúc của nhà thơ.
+ Hình ảnh “Cành củi lạc dòng, héo úa trên sông”: Cành củi bơ vơ, lênh đênh trên dòng nước không ổn định.
- Khổ thơ 2:
+ Nhà thơ khao khát nghe tiếng “Làng xa vãn, chợ chiều vắng vẻ” nhưng không hề nhận được sự đáp lại.
+ Từ “vãn” tạo nên cảm giác hư vô, cô đơn, trống trải.
+ Miêu tả “trời cao chót vót” thành “trời lên sâu chót vót”: Từ “sâu” mang lại một cảm xúc u sầu không lối thoát, nỗi buồn vô tận trong tâm hồn.
- Khổ thơ 3:
Hình ảnh của “bèo”: Biểu tượng cho sự nhỏ bé, tầm thường, tương truyền về cuộc sống phù du, luân hồi của con người.
Cấu trúc phủ định “không một chuyến đò ngang” – “không cầu gợi chút niềm thân mật”: Loại bỏ mọi liên kết, giao thoa giữa con người.
- Khổ thơ 4:
+ Những dòng thơ pha trộn nét cổ điển
+ Sử dụng kỹ thuật chấm phá để tạo ra bức tranh miêu tả phong cảnh thủy mặc với núi, mây, chim bay, bóng chiều và khói hoàng hôn.
+ Kích thích liên tưởng tới câu thơ của Thôi Hiệu và thực hiện so sánh.
Kết luận
- Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm.
b. Mẫu văn tham khảo
Huy Cận, một nhà thơ lừng danh của văn học Việt Nam, với tinh thần cách mạng sâu sắc, đã lồng ghép những tâm sự về thời cuộc vào những tác phẩm của mình. Trong những khoảnh khắc nhìn những sự vật trôi trên dòng sông Tràng Giang, ông đã thể hiện rõ tiếng lòng con người.
Toàn bộ bài thơ chứa đựng nỗi buồn sâu thẳm và lan tỏa trong không gian của từng dòng thơ. Với những câu văn nhẹ nhàng và tận tình, tác giả đã tạo ra những giá trị thơ ca mạnh mẽ và sâu lắng. Bài thơ mở đầu với dòng cảm xúc buồn sâu và đặc biệt:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Cành củi lạc trôi, mất hút giữa dòng nước”.
Trong bài thơ, tác giả sử dụng hình ảnh của sóng biển để diễn tả tâm trạng của bản thân mình. Sóng biển trên dòng sông Tràng Giang thể hiện nỗi buồn man mác, với dòng nước trôi đi để lại những cảm xúc và tình cảm nồng cháy trong hình ảnh thơ. Sử dụng hình ảnh này, tác giả muốn nói về tác động của môi trường xung quanh đối với tâm hồn con người, khiến nỗi buồn trở nên sâu đậm hơn, ngân nga lên như những nốt nhạc trong cuộc sống.
Bức tranh thơ lãng mạn trong bài thu hút người đọc và tạo ra những cảm xúc sâu sắc, làm tỉnh táo những ẩn ý lãng mạn với những từ ngữ uyển chuyển. Dòng nước trôi qua những con sóng tạo ra bờ cát vỗ, tạo nên không gian thơ mộng và huyền bí, mang lại những giá trị về sự sống và màu sắc của cuộc sống. Tràng Giang, con sông lớn và rộng, cũng là biểu tượng cho sự bao la và huyền bí của tình người, mà sóng nước mênh mang khiến tâm trạng trở nên cô đơn và thơ mộng hơn. Bằng cách sử dụng hình ảnh thơ, tác giả đã tạo ra những dòng thơ uyển chuyển và đậm đà cảm xúc, mô tả sâu sắc những hình ảnh đầy nghệ thuật và sức sống của cuộc sống.
Nỗi buồn mênh mang cùng với không gian vô tận tạo ra tâm trạng mơ mộng và đầy nỗi buồn trong lòng con người. Hình ảnh thơ và giá trị sâu sắc của nó cũng thể hiện sự mạnh mẽ và cảm xúc của con người đối với cuộc sống và thiên nhiên. Cảnh quan trên dòng sông Tràng Giang rộng lớn và mênh mông tạo ra những cảm giác lạ lùng, khi những chiếc thuyền trôi trên dòng nước. Tác giả sử dụng từ ngữ như điệp điệp hay song song để tạo ra sự đậm nét của sự vật, diễn tả tâm trạng buồn rầu và mang những nỗi buồn sâu thẳm của con người, những hình ảnh thơ này diễn đạt sâu sắc những cảm xúc và màu sắc của cuộc sống.
Những con thuyền trôi nổi, thể hiện trạng thái tự nhiên của các vật trên sông, nhưng hình ảnh của chúng dưới dòng nước, với những làn sóng, khiến cho lời thơ trở nên buồn và huyền bí. Khi thuyền cập bến, những dòng nước trở nên buồn, tác giả nhân hóa dòng sông, sử dụng biện pháp này để thể hiện tâm trạng của mình. Những hình ảnh thơ đầy ý nghĩa và sâu sắc, cùng với ngôn ngữ giàu cảm xúc, mang lại sự thăng hoa của lời thơ và mạnh mẽ biểu đạt sâu sắc những giá trị cuộc sống.
Tác giả cũng đã nhìn thấy rất nhiều hiện tượng tồn tại xung quanh dòng sông này, với hình ảnh của các đảo cát nhỏ, và những cơn gió đùa nghịch:
“Cồn cát lơ thơ, gió đùa nghịch
Không tiếng làng xa vọng về
Ánh nắng buông, trời cao chót vót,
Sông trải dài, trời rộng, bến cô đơn”
Những cơn gió vẫn thổi nhẹ trên dòng sông, tạo nên cảm giác man mác trong lòng người, và những đợt sóng vỗ trên những rặng liễu và đờn hiu hiu, thấu hiểu những nỗi buồn sâu thẳm của con người. Giá trị thơ mang lại cho chúng ta là những hình ảnh đậm chất và màu sắc thơ phong phú, biểu đạt sức mạnh cảm xúc. Những hình ảnh này đã tạo ra những giá trị vô cùng to lớn. 'Lơ thơ' mô tả sự hiện diện ít ỏi của vật thể, trong không gian yên bình đó, tiếng làng xa vọng về buồn bã... từ trên cao, tác giả ngắm nhìn những ánh sáng nhỏ và ánh nắng chiếu xuống, hình ảnh thơ dài, lãng mạn, thu hút và đầy sức sống, giá trị của lời thơ phản ánh màu sắc quê hương, những bến cô liêu, những dòng sông dài ẩn chứa nhiều nỗi buồn và kỷ niệm, mênh mông của đất trời.
Những hình ảnh thơ mang lại giá trị lớn khi mô tả sự phiêu bạt và không định hình, tận dụng thiên nhiên để diễn đạt tâm trạng cá nhân. Đây là phong cách nghệ thuật độc đáo và hấp dẫn, hình ảnh thơ giàu giá trị, mỗi hình ảnh đều mang đến những cảm xúc sâu sắc và đặc biệt:
'Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cần gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh gặp bãi vàng.'
Ở đây, câu thơ truyền đạt sâu sắc về sự không chắc chắn của số phận con người, những hình ảnh này thể hiện đa dạng cảm xúc và mang lại niềm tin và những kỷ niệm đáng nhớ. Hình ảnh tự nhiên của dòng sông, bèo trôi nổi diễn đạt tình trạng bất định của tác giả, một không gian bao la và sâu lắng, cùng với những cảm xúc không thể diễn tả. Những tình cảm này vẫn hiện hữu, gặp phải những bãi cát trên biển xanh, những dòng sông mát dịu.
Toàn bộ bài thơ là sự phản ánh chân thành về tâm trạng cô đơn của tác giả, sử dụng thiên nhiên để thể hiện cảm xúc cá nhân.