Vẽ sơ đồ tóm tắt các bước trong quy trình giới thiệu về một bài thơ hoặc một bức tranh/ pho tượng Điền vào bảng sau tác dụng của từng bước trong quy trình bài nói giới thiệu về một bài thơ hoặc một bức tranh/ pho tượng
Câu 1
Trả lời Câu hỏi 1 trang 54 SBT Văn 11 Chân trời sáng tạo
Vẽ sơ đồ tóm tắt các bước trong quy trình giới thiệu về một bài thơ hoặc một bức tranh/ pho tượng
Phương pháp giải:
Đọc lại các bước trong quy trình giới thiệu về một bài thơ hoặc một bức tranh/ pho tượng
Lời giải chi tiết:
Học sinh tự thực hiện
Câu 2
Trả lời Câu hỏi 2 trang 54 SBT Văn 11 Chân trời sáng tạo
Điền vào bảng sau tác dụng của từng bước trong quy trình bài nói giới thiệu về một bài thơ hoặc một bức tranh/ pho tượng:
Phương pháp giải:
Nhớ lại những trải nghiệm của bản thân khi thực hiện bài nói
Lời giải chi tiết:
Các bước |
Tác dụng |
Bước 1: Chuẩn bị nói |
Giúp cho người nói chuẩn bị tâm thế, tài liệu để tăng chất lượng bài nói |
Bước 2: Trình bày bài nói |
Giúp cho người nói tặng sự tự tin, kĩ năng nói |
Bước 3: Trao đổi, đánh giá |
- Thu nhận các ý kiến phản hồi để rút kinh nghiệm về kỹ năng trình bày. - Trao đổi để hiểu nhau hơn - Học kỹ năng lắng nghe, kỹ năng phản hồi.
|
Câu 3
Trả lời Câu hỏi 3 trang 54 SBT Văn 11 Chân trời sáng tạo
Nêu tác dụng của việc sử dụng kĩ thuật PMI khi nghe và phản hồi về bài giới thiệu một tác phẩm văn học hoặc tác phẩm nghệ thuật.
Phương pháp giải:
Đọc lại phần Viết về kĩ thuật PMI (bài 1) và rút ra tác dụng của từng bước
Lời giải chi tiết:
Tác dụng của việc sử dụng kĩ thuật PMI khi nghe và phản hồi về bài giới thiệu một tác phẩm văn học hoặc tác phẩm nghệ thuật.
P(Plus): Việc nêu những điểm tích cực của bài nói/ thuyết trình giúp bạn nhận ra những ưu điểm trong kỹ năng nói/ thuyết trình của bản thân.
M(Minus): Nêu điểm còn hạn chế để giúp bạn tiến bộ)
I(Interesting): Nêu điểm thú vị của bài nói/ thuyết trình giúp bạn tự tin và có thêm động lực.
Câu 4
Trả lời Câu hỏi 4 trang 55 SBT Văn 11 Chân trời sáng tạo
Từ bài văn nghị luận đã viết về tác phẩm mà bạn đã chọn, hãy chuyển thành bài giới thiệu về một bài bài thơ và một bức tranh/pho tượng.
Phương pháp giải:
Đọc lại bài văn nghị luận đã viết
Chọn lọc những ý chính để hoàn thành dàn ý
Thực hiện bài nói
Lời giải chi tiết:
GIỚI THIỆU VỀ TRUYỆN NGẮN CHỮ NGƯỜI TỬ TÙ
Tên tác phẩm: Chữ người tử tù
Thể loại: Truyện ngắn
Tác giả: Nguyễn Tuân.
Xin chào cô và các bạn, em xin tự giới thiệu, em tên là … Sau đây, em xin giới thiệu về truyện ngắn Chữ người tử tù. Mong rằng, sau bài giới thiệu của em, các bạn có thêm hiểu biết về truyện ngắn này, hiểu được hết những thông điệp của tác giả và qua đó, có thể rút ra cho bản thân mình một bài học ý nghĩa. Em xin phép được bắt đầu!
Nguyễn Tuân được đánh giá là “nhà văn lớn, một nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái đẹp”, ông có vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. Trước cách mạng ông thoát li hiện thực, tìm về một thời vang bóng, tập Vang bóng một thời chính là tập truyện tiêu biểu nhất cho phong cách của ông trước cách mạng. Trong đó ta không thể không nhắc đến Chữ người tử tù với niềm trân trọng thú viết chữ tao nhã truyền thống.
Tác phẩm có tình huống gặp gỡ hết sức độc đáo, lạ, chúng diễn ra trong hoàn cảnh nhà tù, vào những ngày cuối cùng của người tử tù Huấn Cao, một người mang chí lớn và tài năng lớn nhưng không gặp thời. Vị thế xã hội của hai nhân vật cũng có nhiều đối nghịch. Huấn Cao kẻ tử từ, muốn lật đổ trật tự xã hội đương thời. Còn quản ngục là người đứng đầu trại giam tỉnh Sơn, đại diện cho luật lệ, trật tự xã hội đương thời. Nhưng ở bình diện nghệ thuật, vị thế của họ lại đảo ngược nhau hoàn toàn: Huấn Cao là người có tài viết thư pháp, người sáng tạo ra cái đẹp, còn quản ngục là người yêu và trân trọng cái đẹp và người sáng tạo ra cái đẹp. Đó là mối quan hệ gắn bó khăng khít chặt chẽ với nhau. Với tình huống truyện đầy độc đáo, đã giúp câu chuyện phát triển logic, hợp lí đẩy lên đến cao trào. Qua đó giúp bộc lộ tính cách nhân vật và làm nổi bật chủ đề của truyện: Sự bất tử của cái đẹp, sự chiến thắng của cái đẹp. Sức mạnh cảm hóa của cái đẹp.
Nổi bật trong tác phẩm chính là Huấn Cao, người có tài viết chữ đẹp và nổi tiếng khắp nơi: “người mà vùng tỉnh Sơn ta vẫn khen cái tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp” tiếng tăm của ai khiến ai ai cũng biết đến. Cái tài của ông còn gắn liền với khát khao, sự nể trọng của người đời. Có được chữ của Huấn Cao là niềm mong mỏi của bất cứ ai, được treo chữ của ông trong nhà là niềm vui, niềm vinh dự lớn. Cái tài của Huấn Cao không chỉ dừng lại ở mức độ bình thường mà đã đạt đến độ phi thường, siêu phàm.
Không chỉ tài năng, vẻ đẹp của Huấn Cao còn là vẻ đẹp của thiên lương trong sáng: “Tính ông vốn khoảnh, trừ chỗ tri kỉ, ông ít chịu cho chữ”. “Khoảnh” ở đây có thể hiểu là sự kiêu ngạo về tài năng viết chữ, bởi ông ý thức được giá trị của tài năng, luôn tôn trọng từng con chữ mình viết ra. Mỗi chữ ông viết như một món quà mà thượng đế trao cho bản thân nên chỉ có thể dùng những chữ ấy để trao cho những tấm lòng trong thiên hạ. Trong đời ông, ông không vì uy quyền mà trao chữ cho ai bao giờ: “Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ”. Đặc biệt, tấm lòng thiên lương ấy còn thể hiện trong việc ông đồng ý cho chữ viên quản ngục: “Ta cảm tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Thiếu chút nữa ta đã phụ mất một tấm lòng trong thiên hạ”, tấm lòng của Huấn Cao với những con người quý trọng cái đẹp, cái tài.
Ở Huấn Cao ta còn thấy được trong ông vẻ đẹp của một con người có nghĩa khí, khí phách hơn người. Ông là người giỏi chữ nghĩa nhưng không đi theo lối mòn, dám cầm đầu một cuộc đại phản, đối đầu với triều đình. Khi bị bắt ông vẫn giữ tư thế hiên ngang, trước lời đe dọa của tên lính áp giải tù, Huấn Cao không hề để tâm, coi thường, vẫn lạnh lùng chúc mũi gông đánh thuỳnh một cái xuống nền đá tảng… Khi viên quản ngục xuống tận phòng giam hỏi han ân cần, chu đáo, Huấn Cao tỏ ra khinh bạc đến điều: “Ngươi hỏi ta muốn gì, ta chỉ muốn có một điều, là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây”. Vào thời điểm nhận tin dữ (ngày mai vào kinh chịu án chém), Huấn Cao bình tĩnh, mỉm cười.
Và đẹp đẽ nhất là cảnh cho chữ, cả ba vẻ đẹp của ông được hội tụ và tỏa sáng. Trên tấm vải trắng còn nguyên vẹn lần hồ, chữ Huấn Cao “vuông tươi tắn” nói lên hoài bão, tung hoành của một con người có khí phách. Ông không để tâm đến mọi điều xung quanh chỉ tập trung vào việc tạo ra những nét chữ tuyệt tác. Với việc quản ngục xin chữ, Huấn Cao cũng hiểu ra tấm lòng của quản ngục, trong những giây phút cuối đời đã viết chữ dành tặng viên quản ngục, dành tặng cho tấm lòng biệt nhỡn liên tài trong thiên hạ.
Viên quản ngục là người có số phận bi kịch. Ông vốn có tính cách dịu dàng, biết trọng những người ngay thẳng, nhưng lại phải sống trong tù – môi trường chỉ có tàn nhẫn, lừa lọc. Nhân cách cao đẹp của ông đối lập với hoàn cảnh sống tù đầy, bị giam hãm. Ông tự nhận thức về ki kịch của mình, bi kịch của sự lầm đường lạc lối, nhầm nghề. Nhưng dù vậy, trong quản ngục vẫn giữ được tâm hồn cao đẹp, tâm hồn của một người nghệ sĩ. Ông khao khát có được chữ của Huấn Cao để treo trong nhà, và nếu không xin được chữ ông Huấn quả là điều đáng tiếc. Nhưng xin được chữ của Huấn Cao là điều vô cùng khó khăn: bản thân ông là quản ngục, nếu có thái độ biệt nhỡn, hay xin chữ kẻ tử tù – Huấn Cao, chắc chắn sẽ gặp tai vạ. Hơn nữa Huấn Cao vốn “khoảnh” không phải ai cũng cho chữ.
Trong những ngày cuối cùng của ông Huấn, quản ngục có hành động bất thường, biệt nhỡn với người tử tù. Cũng như Huấn Cao, vẻ đẹp tâm hồn của quản ngục được thể hiện rõ nhất ở đoạn cho chữ. Ông trân trọng, ngưỡng mộ nên đã bất chấp tất cả để tổ chức một đêm xin chữ chưa từng có. Ba con người, ba nhân cách cao đẹp chụm lại chứng kiến những nét chữ dần dần hiện ra…, viên quản ngục khúm lúm cất từng đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ, với thái độ sùng kính, ngưỡng mộ cái đẹp. Trước những lời giảng giải của Huấn Cao, viên quản ngục chắp tay vái người tù một vái, “kẻ mê muội này xin bái lĩnh”.
Tác phẩm đã sáng tạo tình huống truyện vô cùng độc đáo. Với nghệ thuật xây dựng nhân vật đặc sắc, mỗi nhân vật mang một vẻ đẹp riêng, vẻ đẹp thiên lương, khí phách và trọng đãi người tài. Đồng thời tác phẩm cũng thành công khi Nguyễn Tuân đã gợi lên không khí cổ xưa nay chỉ còn vang bóng. Nhịp điệu câu văn chậm, thong thả, góp phần phục chế lại không khí cổ xưa của tác phẩm. Bút pháp đối lập tương phản vận dụng thành thục, tài hoa.
Qua truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã thể hiện niềm tin vào sự chiến thắng tất yếu của cái đẹp, cái thiên lương với cái xấu xa, tàn nhẫn. Đồng thời ông cũng thể hiện tấm lòng trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống, qua đó kín đáo bộc lộ lòng yêu nước. Với nghệ thuật xây dựng tình huống đặc sắc, ngôn ngữ tài hoa đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.
Bài giới thiệu của em đến đây là kết thúc. Trong quá trình làm bài còn có nhiều sai sót nên em rất mong sự góp ý, nhận xét đến từ cô và các bạn để giúp bài của em được hoàn thiện hơn.
Em xin cảm ơn!