Câu 1
Câu 1 (trang 15, SBT Ngữ văn 7, tập 1)
Định nghĩa và phương pháp viết về sự kiện có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử là gì? Cách để viết bài văn theo yêu cầu này là gì?
Chi tiết phương pháp:
Vận dụng kiến thức về cách viết bài văn kể về một sự kiện có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử
Lời giải chi tiết:
– Bài văn kể về một sự kiện có thật liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử cần đảm bảo các yêu cầu sau:
+ Sự kiện được kể phải có thật, liên quan đến nhân vật hoặc sự kiện lịch sử.
+ Nhân vật và sự kiện lịch sử không chỉ là những nhân vật và sự kiện trong lĩnh vực đấu tranh dựng nước và giữ nước mà còn là những nhân vật và sự kiện trong các lĩnh vực văn hoá, khoa học.
+ Câu chuyện thường được kể lại bởi người chứng kiến hoặc được sưu tầm, nghiên cứu và thể hiện lại qua sách, báo, phim ảnh,...
- Để viết bài văn theo yêu cầu này, cần chú ý đọc sách, báo, sưu tầm một số câu chuyện lịch sử, ví dụ:
+ Những anh hùng dân tộc từ xưa đến nay.
+ Những tấm gương về chống giặc ngoại xâm, lòng yêu nước, dũng cảm trong các cuộc kháng chiến
+ Câu chuyện về cuộc đời hoạt động cách mạng và sinh hoạt đời thường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các chiến sĩ cách mạng hoặc các nhà hoạt động xã hội nổi tiếng.
+ Các hoạt động khoa học, sáng tạo trong nhiều lĩnh vực cuộc sống.
Câu 2
Câu 2 (trang 15, SBT Ngữ văn 7, tập 1)
Viết bài văn kể về một câu chuyện có thật của người thân trong gia đình hoặc một người nổi tiếng ở địa phương em.
Phương pháp giải:
Liên kết kể về một nhân vật hoặc một sự kiện thực sự của một người thân trong gia đình hoặc một người nổi tiếng trong địa phương của em
Lời giải chi tiết:
Bài viết tham khảo:
Nếu ai đó hỏi tôi về người mà tôi yêu quý nhất, tôi sẽ không do dự trả lời: Đó chính là cha tôi. Cha tôi là một người nông dân, hàng ngày bước chân trên cánh đồng, tay chạm đất như bao người nông dân khác. Nhưng trong tâm trí tôi, cha luôn là người vĩ đại nhất. Khi tôi mười tuổi, mẹ tôi ra đi vì một cơn đau tim đột ngột. Từ đó, cha phải lo toan nuôi con từng bữa ăn, giấc ngủ, và cả chuyện học hành.
Sau khi mẹ mất, cha trở nên gầy gò và già đi. Nhiều đêm, tôi thấy cha đứng trước bức ảnh mẹ, bàn tay run run vuốt nhẹ tấm ảnh của mẹ, thì thầm những lời tôi không nghe rõ, những giọt nước mắt từ từ tràn ra trên khuôn mặt nhăn nhó. Sau đó, cha quỳ xuống trước bức ảnh mẹ, ôm chặt tấm ảnh vào lòng và khóc nức nở. Tôi đứng nhìn từ xa, cảm thấy nỗi nhớ mẹ vô cùng. Đêm đó, tôi thấy cha không ngủ. Ông ra ngoài sân, hút điếu thuốc và rơi nước mắt từng giọt. Điều này là mới mẻ, bởi cha từng không bao giờ hút thuốc trước đây. Từ khi mẹ mất, điếu thuốc trở thành người bạn đồng hành của cha mỗi đêm. Và tôi hiểu, đó là lúc trái tim cha cô đơn nhất. Mẹ ra đi không chỉ là mất mát lớn với tôi mà còn để lại một khoảng trống vô hạn trong lòng cha.
Để nuôi sống gia đình, sau những ngày gieo mạ, cha phải làm thêm nghề. Đó không chỉ là nghề phụ mà còn là nguồn thu nhập chính của gia đình. Cha tôi làm thợ mộc. Sau một ngày làm việc vất vả, quần áo cha lúc nào cũng ướt sũng mồ hôi và đầy vảy gỗ. Tay cha ngày một chai sạn hơn, da trở nên cháy nắng. Những ngày đông, nhiều hôm hai bàn tay, bàn chân của cha ứa máu, nứt nẻ. Những lúc đó, tôi rất thương cha! Tôi khuyên cha nghỉ việc nhưng cha luôn từ chối, chỉ xoa đầu tôi và cười, nụ cười thật hiền: “Cha không sao đâu, con gái đừng lo!”. Một hôm, khi cha xây nhà cho hàng xóm, tôi mới thấy rõ sự cố gắng của cha. Dưới cái nắng nóng, cha treo lên giàn giáo cao, một cảm giác không an toàn. Lo cho cha, tôi đứng dưới đất, cứ nhắc nhở cha phải cẩn thận. Cha chỉ cười và đáp lại: “Con yên tâm đi!”.
Nhiều năm sau khi mẹ mất, tôi cảm thấy hối tiếc vì đã để cha chịu nhiều gánh nặng. Cuộc sống bận rộn cuốn tôi đi khắp nơi. Có khi nửa tháng không quay lại nhà. Mỗi khi về, thấy cha già dặn đi, vẫn ăn một mình trong căn nhà lẻ loi, lòng tôi đau xót. Đó là khi tôi nhận ra những sai lầm của mình. Tôi muốn chạy về ôm cha và xin lỗi nhưng không thể. Đến lúc này, tôi mới thấu hiểu hết những gì cha đã làm cho tôi. Tôi muốn hét lên cho cả thế giới biết rằng tôi yêu cha – người đàn ông vĩ đại nhất trong cuộc đời tôi.”.
Câu 3
Câu 3 (trang 15, SBT Ngữ văn 7, tập 1)
Hãy kể chuyện về một nhân vật lịch sử mà em yêu thích.
Phương pháp giải:
Xác định nhân vật lịch sử mà em yêu thích và kể
Lời giải chi tiết:
Bài tham khảo:
Lý Công Uẩn người làng Cổ Pháp thuộc Đông Ngạn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Hiện nay ở làng Đình Bảng vẫn còn có lăng và đền thờ các vua nhà Lý.
Tục truyền rằng Công Uẩn không có cha; mẹ là Phạm Thị đi chơi chùa Tiên Sơn (làng Tiên Sơn, phủ Từ Sơn), đêm về nằm mộng thấy 'đi lại' với thần nhân, rồi có thai đẻ ra đứa con trai. Lên ba tuổi, đứa bé càng khôi ngô tuấn tú; gia đình đem cho nhà sư ở chùa Cổ Pháp tên là Lý Khánh Văn làm con nuôi. Lý Công Uẩn được học hành chữ Nho, kinh Phật và võ nghệ từ nhỏ, lớn lên dưới mái chùa, trở thành một tài trai văn võ siêu quần.
Ngoài hai mươi tuổi, Lý Công Uẩn đã làm võ tướng dưới triều vua Lê Đại Hành, từng lập công to trong trận Chi Lăng (981) đại phá quân Tống xâm lược, chém đầu tướng giặc Hầu Nhân Bảo. Về sau, ông giữ chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ, nắm trong tay toàn bộ binh quyền. Đức trọng tài cao, ông được quần thần và tướng sĩ rất kính phục.
Năm 1005, Lê Đại Hành băng hà. Ngôi vua được truyền cho Lê Long Việt. Chỉ ba ngày sau, Lê Long Đĩnh giết anh, giành lấy ngai vàng. Lê Long Đĩnh là một tên vua vô cùng bạo ngược khác nào Kiệt, Trụ ngày xưa. Hắn hoang dâm vô độ, nên mắc bệnh không ngồi được; đến buổi châu thì cứ nằm mà thị triều, cho nên tục gọi là Vua Ngọa Triều. Cuối năm 1009, Lê Ngọa Triều chết.
Năm đó, Lý Công Uẩn đã ba mươi lãm tuổi. Bấy giờ lòng người đã oán giận nhà Tiền Lê lắm rồi; quần thần và tầng lớp tăng lữ suy tôn ông lên ngôi báu, mở đầu triều đại nhà Lý (1010-1225).
Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế vào đầu xuân 1010, tức là vua Lý Thái Tổ nhà Lý. Nhà vua trị vì được mười chín năm, thọ năm mươi lãm tuổi, băng hà năm 1028.
Vua Lý Thái Tổ tăng cường binh bị, ra sức đánh dẹp nội loạn phản nghịch. Các hoàng tử đều là võ tướng, được phong vương, trấn giữ các nơi hiểm yếu. Việc bang giao với nhà Tống ở phương Bắc, với Chân Lạp, Chiêm Thành ở phương Nam được coi trọng, biên cương được giữ vững, đất nước thái bình, trăm họ yên vui. Vua chia nước ta ra làm hai mươi bốn lộ và hai trại (Hoan Châu và Ái Châu), định ra sáu loại thuế, khuyến khích nông nghiệp và các nghề thủ công. Đạo Phật trở thành quốc giáo. Việc học hành được mở mang. Việc dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, rồi đặt tên là Thăng Long năm 1010 được coi là cống hiến to lớn nhất trong sự nghiệp xây dựng quốc gia Đại Việt của vua Lý Thái Tổ.