Phân tích 'Tài tình' - Tiếng Việt lớp 5
Lời giải bài tập Tập đọc: Phân xử tài tình trang 47 Tiếng Việt lớp 5 cụ thể và chi tiết, giúp học sinh dễ dàng làm bài tập sgk Tiếng Việt lớp 5.
Phân tích 'Tài tình'
Xưa, có một quan án rất có tài. Mọi vụ án, ông đều tìm ra dấu vết và phân xử một cách công bằng.
Một ngày nọ, hai phụ nữ đến gặp quan án. Một người khóc lóc:
- Bẩm quan, tôi mang vải đi chợ, người này hỏi mua, sau đó cướp tấm vải và nói đó là của mình.
Người kia cũng rơi nước mắt:
- Tấm vải là của tôi. Người này đã lấy trộm.
Không có người làm chứng, quan ra lệnh để lính về nhà của họ kiểm tra. Cả hai đều có khung cửi, đều mang vải đi chợ bán vào ngày hôm đó. Sau khi suy nghĩ một chút, quan nói:
- Cả hai đều có lý, vậy ta sẽ xử như thế này: tấm vải sẽ được xé đôi, mỗi người sẽ nhận một nửa.
Thực hiện theo lệnh, lính lập tức xé vải. Một người phụ nữ bắt đầu khóc. Quan sau đó đưa cả tấm vải cho người này và buộc người kia lại. Sau khi thẩm vấn, kẻ kia phải thú nhận tội lỗi.
Một lần khác, quan đến thăm một ngôi chùa. Sư cụ nồng nhiệt chào đón, sau đó nhờ giúp tìm số tiền mất của nhà chùa.
Quan yêu cầu sư cụ tổ chức lễ cúng Phật, sau đó gọi tất cả sư vãi và đưa kẻ ăn người ra khỏi chùa. Mỗi người được giao một nắm thóc và quan bảo:
- Chúng ta đã mất tiền trong chùa và thủ phạm chưa rõ ràng. Mỗi người hãy cầm một nắm thóc đã ngâm nước và chạy quanh đàn, niệm Phật. Phật thật cao quý. Kẻ gian sẽ bị phát hiện, bởi Phật sẽ khiến thóc trong tay họ nảy mầm. Điều này sẽ làm cho sự gian dối trở nên rõ ràng.
Chỉ sau một vài vòng chạy, một cậu bé thỉnh thoảng hé bàn tay cầm thóc ra kiểm tra. Quan ngay lập tức bắt cậu bé vì chỉ kẻ có tật mới giật mình. Cậu bé đành phải thú nhận tội lỗi.
Theo NGUYỄN ĐỔNG CHI
Nội dung chính của 'Phân xử tài tình'
Bài đọc kể về một vị quan thông minh, xử án công bằng. Ông đã phát hiện người phụ nữ định lừa đảo để lấy vải và kẻ trẻ con ăn trộm tiền của chùa. Ông đã bảo vệ sự công bằng trong xã hội.
Bố cục của bài 'Phân xử tài tình'
Bài văn 'Phân xử tài tình' được phân thành 2 phần:
- Phần 1: Từ đầu đến “...cúi đầu nhận lỗi”: Quan phân xử vụ hai người phụ nữ tranh nhau một tấm vải
- Phần 2: Đoạn còn lại: Quan phân xử vụ mất trộm tiền trong chùa.
Câu 1 (trang 47 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 2): Hai phụ nữ đến công đường nhờ quan xử lí việc gì?
Trả lời:
Họ đến vì vấn đề về tấm vải. Một người cáo buộc người kia đã lấy vải của mình và không chịu nhường nhịn, nên họ cần sự can thiệp của quan.
Câu 2 (trang 47 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 2): Quan đã sử dụng những biện pháp nào để tìm ra người lấy cắp tấm vải? Tại sao quan tin rằng người không khóc là kẻ đã lấy cắp?
Trả lời:
- Quan đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để tìm ra kẻ lấy cắp:
+ Yêu cầu người làm chứng nhưng không ai đồng ý.
+ Gửi lính về nhà của họ kiểm tra, nhưng cả hai đều có alibi.
+ Xé tấm vải làm đôi, mỗi người nhận một nửa. Một người phụ nữ bật khóc.
- Quan sau đó quyết định đưa cả tấm vải cho người này và buộc người kia lại.
- Quan cho rằng người không khóc chính là kẻ lấy cắp vì chỉ có chủ nhân thực sự của tấm vải mới đau lòng khi thấy nó bị xé.
Câu 3 (trang 47 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 2): Hãy kể lại cách mà quan án đã tìm ra kẻ lấy trộm tiền của nhà chùa.
Trả lời:
Quan yêu cầu sư cụ tổ chức lễ cúng Phật, sau đó gọi tất cả sư sãi và đưa kẻ ăn người ra khỏi chùa. Mỗi người được giao một nắm thóc và quan nói rằng: Đức Phật thần thánh sẽ làm cho thóc trong tay kẻ ăn cắp nảy mầm. Không lâu sau, một cậu bé chạy vừa nén nhìn thóc, quan ngay lập tức bắt cậu bé vì chỉ kẻ có tật mới giật mình.
Câu 4 (trang 47 sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 tập 2): Tại sao quan án sử dụng phương pháp trên? Lựa chọn ý trả lời đúng:
a) Vì tin rằng thóc trong tay kẻ gian sẽ nảy mầm.
b) Vì biết rằng kẻ gian thường lo lắng nên sẽ lộ bản tính thật của mình.
c) Vì cần thời gian để thu thập chứng cứ.
Trả lời:
Lựa chọn đáp án b) Vì biết rằng kẻ gian thường lo lắng nên sẽ lộ bản tính thật của mình.
Bài kiểm tra Tập đọc: Phân xử tài tình (có đáp án)
Câu 1: Vị quan án trong câu chuyện phân xử tài tình được giới thiệu như thế nào?
A. Là một người già, trí thức uyên bác.
B. Là một người trẻ, nhan sắc hào hoa.
C. Là một người rất thông minh, trong mọi vụ án ông đều tìm ra manh mối và phân xử công bằng.
D. Là một người có tài, lòng nhân hậu, luôn xử đối với những người có tội một cách nhẹ nhàng.
Câu 2: Trong vụ án thứ nhất, hai người đàn bà tới công đường nhờ phân xử vấn đề gì?
A. Về việc mất cắp đàn gà, hai người đàn bà tố cáo nhau ăn cắp đàn gà của mình và nhờ quan phân xử.
B. Về việc mất cắp tấm vải, hai người đàn bà tố cáo nhau ăn cắp tấm vải của mình và nhờ quan phân xử.
C. Về việc mất cắp tiền, hai người đàn bà tố cáo nhau ăn cắp tiền nhà mình và nhờ quan phân xử.
D. Về việc mất con, hai người đàn bà tranh nhau đứa trẻ ngoài chợ và nhờ quan phân xử.
Câu 3: Quan đã sử dụng những biện pháp nào để phát hiện kẻ lấy cắp tấm vải?
☐ Yêu cầu người làm chứng nhưng không tìm thấy ai đồng ý.
☐ Đưa lính về nhà của hai người phụ nữ, và phát hiện cả hai đều có khung cảnh giống nhau và cùng ra chợ vào ngày đó, làm cho vụ án trở nên phức tạp hơn.
☐ Sai xử phạt hai người phụ nữ bằng cách đánh họ mỗi người 100 roi, cuối cùng người phụ nữ ăn cắp cũng phải bật khóc nhận tội.
☐ Yêu cầu xé tấm vải làm đôi cho mỗi người một mảnh. Khi một trong hai người bật khóc, quan ra lệnh trả tấm vải cho người đó và giam giữ người còn lại.
Câu 4: Theo quan, người không khóc khi tấm vải bị xé chính là kẻ ăn cắp vì chỉ có người thực sự làm công ra để dệt tấm vải mới cảm thấy đau lòng khi thấy thành quả của mình bị phá hủy, trong khi những kẻ ăn cắp chỉ tận hưởng lợi ích từ công sức của người khác mà không cảm thấy đau buồn. Theo con, nhận định trên đúng hay sai?
A. Đúng
B. Sai
Câu 5: Khi quan đến chùa, diễn ra sự kiện gì?
A. Sư cụ yêu cầu tìm lại số tiền mất của nhà chùa.
B. Sư cụ yêu cầu tìm lại chiếc áo cà sa quý bị mất của mình.
C. Sư cụ nhờ tìm ra kẻ đã phá hủy chuông linh thiêng của chùa.
D. Sư cụ nhờ tìm giữ vật báu quan trọng của chùa.
Các chủ đề khác được nhiều người quan tâm.