Để giúp học sinh tổ chức kiến thức một cách hiệu quả, chúng tôi đã biên soạn bài viết Hướng dẫn sơ đồ tư duy bài thơ Việt Bắc một cách dễ nhớ và ngắn gọn. Nội dung bao gồm thông tin tổng quan về tác phẩm, tác giả, cấu trúc, ý nghĩa và mẫu phân tích văn bản. Chúng tôi hy vọng rằng thông qua sơ đồ tư duy này, học sinh sẽ hiểu rõ hơn về nội dung cơ bản của bài thơ Việt Bắc.
Hướng dẫn sơ đồ tư duy bài thơ Việt Bắc một cách dễ nhớ và ngắn gọn
A. Sơ đồ tư duy bài thơ Việt Bắc
B. Khám phá về Việt Bắc
I. TÁC GIẢ:
- Tố Hữu (1920 – 2000), tên thật là Nguyễn Kim Thành.
Quê quán: làng Phù Lai, nay thuộc xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế.
- Trưởng thành trong một gia đình nho học ở Huế và có niềm đam mê với văn chương
- Con đường thơ và con đường cách mạng của Tố Hữu không thể tách rời. Mỗi tập thơ của ông đều mang tính cách mạng.
- Con đường thơ và con đường cách mạng của Tố Hữu không thể tách rời. Mỗi tập thơ của ông đều mang tính cách mạng.
- Phong cách thơ của Tố Hữu:
+ Thơ của Tố Hữu kết hợp giữa trữ tình và chính trị
+ Thơ của Tố Hữu thường có xu hướng sử thi và lãng mạn
+ Thơ của Tố Hữu truyền đạt tâm trạng một cách ấm áp và dễ chịu
+ Thơ của Tố Hữu phản ánh sâu sắc bản sắc dân tộc
⇒ Thơ của Tố Hữu là biểu tượng của tinh thần chiến sĩ cách mạng, luôn hy sinh cho tương lai hạnh phúc của dân tộc và con người.
II. TÁC PHẨM:
1. Hoàn cảnh ra đời:
- Sau chiến thắng ở Điện Biên Phủ, vào tháng 7 năm 1954, Hiệp định Giơ - ne - vơ về Đông Dương được ký kết, đánh dấu một giai đoạn hòa bình mới cho dân tộc Việt Nam.
- Tháng 10 năm 1954, sau khi các chiến binh từ khu vực miền núi trở về miền Nam, Trung ương Đảng và Chính phủ rời khỏi khu vực chiến trường ở Việt Bắc và trở về thủ đô. Nhân dịp sự kiện quan trọng này, Tố Hữu đã sáng tác một bài thơ đặc biệt.
2. Dạng thơ: Lục bát
3. Chủ đề:
Trích đoạn ca ngợi con người và cuộc sống tại khu vực chiến trường Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, với sự gian khổ và hào hùng, đồng thời thể hiện lòng thân thiết giữa người chiến sĩ Cách mạng và nhân dân Việt Bắc.
4. Cấu trúc: Gồm 2 phần
- Phần 1 (20 câu đầu): Lời chia tay của người ở lại đối với người ra đi.
- Phần 2 (phần còn lại): Lời của người ra đi kèm với nỗi nhớ về Việt Bắc.
5. Ý nghĩa:
- Việt Bắc là một bản hòa âm vĩ đại và cũng là một bản tình ca về cách mạng, về cuộc đấu tranh và những người tham gia đấu tranh. Thể hiện sự kết nối sâu sắc, tình cảm sâu sắc với nhân dân, đất nước trong niềm tự hào dân tộc.
- Việt Bắc là bài hát biểu tượng về lòng yêu nước chung của những người chiến sĩ cách mạng, những người tham gia cuộc kháng chiến, của toàn bộ dân tộc thông qua lời thơ của nhà thơ. Ngoài ra, bài thơ còn phản ánh âm hưởng hào hùng của anh hùng ca, đưa chúng ta trở về với một thời kỳ lịch sử vĩ đại, quan trọng của quốc gia.
6. Giá trị nghệ thuật:
- Sử dụng một cách sáng tạo hai từ 'mình, ta' và thể hiện mối quan hệ giao duyên trong văn học dân gian, để diễn đạt tâm hồn cách mạng.
- Bài thơ Việt Bắc thể hiện sự giàu có văn hóa dân tộc:
+ Thành công trong việc sử dụng thể thơ lục bát truyền thống.
+ Sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh giản dị, thân thuộc, gần gũi, rất dân dã.
+ Áp dụng nhiều kỹ thuật nghệ thuật phong phú như điệu từ, danh sách, so sánh, ẩn dụ tượng trưng…
+ Nhịp điệu thơ uyển chuyển, âm nhạc vang vọng, giọng điệu biến đổi linh hoạt.
III. DÀN Ý PHÂN TÍCH:
I. Bắt đầu:
- Giới thiệu về tác giả Tố Hữu (tiểu sử, hành trình Cách mạng, phong cách thơ)
- Giới thiệu về bài thơ “Việt Bắc” (ngữ cảnh sáng tác, tổng quan về giá trị nội dung, nghệ thuật)
II. Nội dung chính:
1. Thông điệp của người ra đi và người ở lại:
a) Tám câu đầu: Bài hát chia tay đầy cảm xúc, sâu lắng:
- Cách sử dụng ngôn từ “mình – ta cùng âm điệu dịu dàng của những câu ca dao, những bài hát trò chuyện tạo nên khung cảnh chia ly đầy xúc động, lưu luyến
- Từ ngữ:
+ Từ như “mình trở về”, “mình nhớ” gợi lên một không gian, một thời gian đầy kỷ niệm
+ Từ ngữ như “thương nhớ”, “bồi hồi”, “xao xuyến” thể hiện tâm trạng hoài niệm, lưu luyến
+ Sử dụng từ như “nhớ” mô tả nỗi nhớ lưu luyến
+ Khoảng thời gian ấy: thời gian đong đầy những cảm xúc sâu lắng, chân thành
- Hình ảnh:
+ 'núi', “sông”, 'nguồn' là những biểu tượng tiêu biểu của vùng núi rừng Việt Bắc.
+ “cầm tay nhau” diễn đạt sự gắn bó
+ áo chàm (ẩn dụ): biểu tượng của người dân Việt Bắc, thể hiện tình cảm chân thành, không lời lẽ
⇒ Tám câu đầu là khung cảnh chia ly đầy cảm xúc, sâu lắng, gắn bó, và nhớ nhung của người ở và người ra đi.
b) Lời nhắn nhủ của người ở lại đến người ra đi:
- Lời nhắn gửi được biểu đạt qua những câu hỏi: nhớ về gốc nguồn Việt Bắc, quê hương cách mạng, nhớ thiên nhiên Việt Bắc, nhớ các địa danh lịch sử, nhớ những kỷ niệm ân tình...
- Nghệ thuật:
+ Liệt kê nhiều kỷ niệm.
+ Ẩn dụ, nhân hóa: rừng núi nhớ về ai.
+ Sử dụng điệp từ “mình”
+ Sử dụng cách ngắt nhịp /4, 4/4 để truyền đạt tâm trạng cảm động, tha thiết nhắn nhủ người về.
⇒ Thiên nhiên, đất đai và con người Việt Bắc với biết bao tình nghĩa, ân tình, và lòng trung thành.
a) Hồi ức về cảnh và con người Việt Bắc:
- Nỗi nhớ được ví như nỗi nhớ người yêu.
- Hồi ức về thiên nhiên Việt Bắc:
+ Trăng lên trên đỉnh núi, nắng chiều buông lưng nương.
+ Buổi chiều hòa quyện khói bếp và sương mù.
+ Cảnh làng quê hiện lên trong sương mờ.
+ Cảnh rừng già, bờ tre...
+ Thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa với những hình ảnh độc đáo, đặc sắc
- Hồi ức về con người Việt Bắc:
+ Nhớ về người Việt Bắc trong cảnh khó khăn, gian khổ nhưng vẫn đầy tình nghĩa, trung thành, gắn bó với cách mạng.
+ Hồi ức về những kỉ niệm đong đầy niềm vui, ấm áp giữa đồng đội và nhân dân Việt Bắc: lớp học tạm bợ, những giờ liên hoan.
+ Nhớ lại hình ảnh những người mang vẻ đẹp giản dị, mộc mạc của người lao động: “mẹ”, “em gái”.
⇒ Với cách kể xen kẽ, mỗi câu tả cảnh, mỗi câu tả người đều làm nổi bật sự hòa quện, sự kết nối chặt chẽ giữa thiên nhiên và con người. Đây chính là vẻ đẹp rực rỡ mang đậm dấu ấn phương Đông.
b) Hồi ức về Việt Bắc chiến đấu với kẻ thù và Việt Bắc anh hùng
- Hồi ức về hình ảnh toàn cảnh núi rừng Việt Bắc chiến đấu với kẻ thù: “Rừng....”
- Hồi ức về hình ảnh đoàn quân kháng chiến: “Quân đi...”
- Hồi ức về những chiến công tại Việt Bắc, những chiến thắng với niềm vui phơi phới
⇒ Nhịp thơ mạnh mẽ, dồn dập như âm hưởng bước đi của quân đội. Hình ảnh hùng vĩ... tất cả tạo nên một bức tranh sử thi tráng lệ để tôn vinh sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của nhân dân anh hùng.
c) Hồi ức về niềm tin vào Việt Bắc:
- Hồi ức về cuộc họp cao cấp với nhiều chi tiết, hình ảnh tươi sáng.
⇒ Việt Bắc chính là cội nguồn, là quê hương của cách mạng.
III. Kết thúc:
- Tóm tắt giá trị về nội dung và nghệ thuật của bài thơ
+ Nội dung: bài thơ là một khúc hát tình ca về cách mạng, về cuộc chiến và con người tham gia cuộc chiến. Thể hiện sự gắn bó, tình cảm sâu nặng với nhân dân, đất nước, đầy tự hào dân tộc…
+ Nghệ thuật: mang đậm bản sắc dân tộc, với việc sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình – ta”, ngôn ngữ, hình ảnh thơ đơn giản, nhịp thơ uyển chuyển, sử dụng thể thơ dân tộc – lục bát...
- Cảm nhận cá nhân: bài thơ giúp chúng ta nhìn thấy lòng nghĩa tình của người dân Việt trong những thời kỳ khó khăn, gian khổ của cuộc chiến tranh, khi họ đấu tranh cho độc lập, tự do cho dân tộc
IV. MỘT SỐ CÂU HỎI ĐỌC HIỂU VÀ PHÂN TÍCH:
Câu hỏi 1:
Đọc đoạn thơ dưới đây và trả lời câu hỏi:
“- Mình về có hay mình nhớ
Mười lăm năm tình cảm sâu sắc.
Mình về có hay mình không
Nhìn cây nhớ núi, sông ghi lòng nguồn?
- Tiếng ai đâu kia vẫn còn
Bồn chồn trong lòng, bâng khuâng bước đi.
Trong buổi chia tay, chiếc áo chàm trở thành biểu tượng
Hai người cầm tay nhau, không biết nói gì vào ngày hôm nay…”
(Việt bắc – Tố Hữu)
Câu 1: Đoạn thơ trên tập trung làm nổi bật điều gì? Mười lăm năm ấy là thời gian nào? Tại sao gợi nhớ mười lăm năm ấy?
Câu 2:“Mười lăm năm” biểu thị khoảng thời gian nào?
Câu 3: Trong đoạn thơ, ai là người phát ngôn đầu tiên?
Câu 4: Hình ảnh “Hai người cầm tay nhau, không biết nói gì vào ngày hôm nay” diễn tả những cung bậc cảm xúc nào?
Câu 5 : Biện pháp ngôn từ được áp dụng hiệu quả nhất trong đoạn thơ là gì? Tác dụng của biện pháp ngôn từ đó?
Câu 6: Sáng tạo của Tố Hữu trong việc sử dụng hình thức của đoạn thơ.
Đáp án:
Câu 1:
- Đoạn thơ trên tập trung làm nổi bật khung cảnh chia ly
- Con số mười lăm năm vừa mang nghĩa thực, vừa mang nghĩa hư ảo : đó là mười lăm năm cách mạng. mười lăm năm chiến khu Việt Bắc nhưng đồng thời cũng là mười lăm năm gắn bó thuỷ chung giữa cán bộ kháng chiến với nhân dân Việt Bắc
Câu 3: Trong đoạn thơ, người ở lại là người bắt đầu lên tiếng.
Câu 4: Hình ảnh “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay” miêu tả sự nhớ nhung, lưu luyến, bịn rịn giữa kẻ ở và người đi.
Câu 5: Biện pháp tu từ được sử dụng hiệu quả nhất trong đoạn thơ là:
Từ ngữ “nhớ”: diễn tả nỗi nhớ tràn đầy, tha thiết.
- Sử dụng hoán dụ “áo chàm”: Đây là biểu tượng cho người Việt Bắc, diễn tả sự gắn bó, tha thiết của quân dân.
Câu 6: Sáng tạo của Tố Hữu trong việc sử dụng hình thức của đoạn thơ là:
- Sử dụng hình thức đối đáp của ca dao dân ca với cặp từ “mình – ta”.
- Tố Hữu áp dụng sự sáng tạo để thể hiện những tâm trạng cách mạng sâu sắc.
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
- Ta trở về thành phố xa xôi
Còn thấy núi non xanh biếc ấy chăng?
Bên phố đông vẫn nhớ về quê hương
Ánh đèn chiếu sáng, còn thấy mảnh trăng giữa rừng xanh?
Ta đi, ai đó nhớ kỷ niệm xa xưa
Bao giờ Việt Bắc sẽ thêm phồn thịnh?
- Ðường về, đây chỉ còn gần thôi!
Hôm nay xa bản quê về thành phố
Cao nhà không che khuất núi xanh
Phố đông, thúc giục bước chân vội vã trên đường.
Mai nữa trở lại làng quê
Rừng xưa núi cũ, lòng yêu thương tái hiện
Mai ngày sông núi nhộn nhịp
Tàu chạy về đi, mắc lưới đủ phương hướng.
(Trích Việt Bắc - Thơ Tố Hữu – NXB Giáo dục 2003)
Đề 2:
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là gì?
Câu 2: Chỉ ra và nêu hiệu quả nghệ thuật của một biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích?
Câu 3: Nêu kết cấu và tóm tắt nội dung của đoạn trích?
Câu 4: Điều bạn ấn tượng nhất trong đoạn trích là gì? (Viết từ 5 đến 7 dòng)
Đáp án:
Câu 1: Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là: biểu cảm
Câu 2: Biện pháp tu từ được sử dụng trong đoạn trích là:
- Câu hỏi tu từ (Mình về... chăng?/ Sáng đèn còn... rừng?/ Mình đi... vui?).
+/ Tác dụng của biện pháp tu từ đó là: Nhấn mạnh, tạo ấn tượng đặc biệt cho đoạn thơ, nhắc nhở người ra đi đừng thay lòng đổi dạ, luôn khắc sâu trong lòng những kỉ niệm sâu đậm với quê hương cách mạng Việt Bắc trong kháng chiến. Dẫu có về thành thị xa xôi, về với phố đông sáng đèn thì những năm tháng gắn bó với chiến khu Việt Bắc vẫn là quãng thời gian không thể nào quên
- Điệp ngữ:
+/ Sử dụng tái lập cụm từ 'còn thấy, còn nhớ' nhằm tôn trọng, tạo sự chân thành, và nhấn mạnh cảm xúc của người ra đi, gợi lại những kỷ niệm sâu đậm với quê hương Việt Bắc.
+/ Việc lặp lại từ 'ngày mai' nhấn mạnh niềm tin và hy vọng vào một tương lai tươi sáng, mang đến sự lạc quan và mong đợi.
Câu 3: Cấu trúc của đoạn thơ là: cấu trúc đối đáp
- Nội dung chính của đoạn trích là: Sử dụng lời đối đáp giữa kẻ ở và người đi, đề cập đến những kỷ niệm kháng chiến, thể hiện tình cảm lưu luyến sâu sắc của người ra đi, và khẳng định niềm tin vào một tương lai tươi sáng.
Câu 4: Học sinh được tự do bày tỏ quan điểm cá nhân và sử dụng lập luận để bảo vệ quan điểm của mình.
- Có thể phản ánh nhận xét như: Tình cảm chân thành giữa người ra đi và kẻ ở; tinh thần đoàn kết trong cuộc kháng chiến; niềm tin và hi vọng vào một tương lai tươi sáng...
Bài phân tích
Bài toán: Phân tích tác phẩm thơ “Việt Bắc”
Phân tích thơ Việt Bắc - mẫu 1
Đoạn trích từ thơ “Việt Bắc” mô tả sự chia ly đầy nỗi nhớ nhung giữa khu vực Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng, tái hiện lại những kỷ niệm anh dũng trong cuộc kháng chiến và tình đoàn kết sâu sắc. Tác giả đã chọn thể thơ lục bát và lối hát đối đáp như trong ca dao dân ca để tạo hình tượng của Việt Bắc và những người chiến sĩ cách mạng dưới hình thức Ta – Mình. Cuộc chia ly giữa nhân dân Việt Bắc và những chiến sĩ mang tính biểu tượng như một cuộc chia tay của hai trái tim đầy luyến tiếc và quyết tâm.
Đoạn bắt đầu bằng lời của Việt Bắc. Việt Bắc – người ở lại – bắt đầu bằng cách rất nhẹ nhàng, vì người ở lại thường không thể lòng với người ra đi:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
Thơ “Việt Bắc” có hai giai điệu chính. Dòng thơ mở đầu “Mình về mình có nhớ ta” đại diện cho giai điệu chính đầu tiên. Dòng thơ này ban đầu có vẻ đơn giản nhưng chứa đựng sâu sắc. Một trăm cặp tình nhân chia tay cũng đều có thể nói lời này. Tố Hữu sử dụng màu sắc của tình yêu để thể hiện tình cảm cách mạng. Đại từ “mình” và “ta” đứng ở hai đầu dòng thơ, tạo ra một khoảng cách rõ ràng. Từ “nhớ” được lặp lại ba lần, tạo nên bản sắc chính của bài thơ: lưu luyến, thương nhớ, tình thân thiết. Người ra đi lặng lẽ trước những câu hỏi đầy ý nghĩa của Việt Bắc:
“Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…”
Việt Bắc tiếp tục đặt câu hỏi:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?”
Để Việt Bắc đặt câu hỏi là một cách để nhà thơ gợi lên những ngày gian khó trong kháng chiến. Chỉ cần một vài hình ảnh như “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù” là đủ để hình dung ra cảnh rừng núi u ám trong những ngày đầu kháng chiến. Mình và Ta đã cùng chịu gánh nặng khó khăn “miếng cơm chấm muối”, đã cùng đồng lòng đấu tranh chống lại kẻ thù chung “mối thù nặng vai”.
Vẫn là Việt Bắc đặt câu hỏi, nhưng bốn dòng thơ đã thay đổi:
“Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”
Biện pháp tu từ “rừng núi nhớ ai” thể hiện lòng mến mộ sâu sắc của Việt Bắc dành cho những người chiến sĩ. Khi mình về, rừng núi Việt Bắc trống trải “Trám bùi để rụng, măng mai để già”. Quả trám (trám xanh và trám đen) và măng mai là món ăn hàng ngày của quân và cán bộ kháng chiến. Sử dụng điều thiếu để nói lên điều thừa, thật sự tinh tế! Sự đối lập giữa bề ngoài (hắt hiu lau xám) và bên trong (đậm đà lòng son) phản ánh một cách chân thực cuộc sống nghèo khó, cực nhọc của nhân dân Việt Bắc, nhưng trong lòng vẫn trung thành với cách mạng.
Cuối cùng, Việt Bắc hỏi người về:
“Khi ta đi, ta có nhớ ta
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?”
Giai điệu chính thứ hai của bài thơ lên tiếng: “Khi ta đi, ta có nhớ ta”. Nếu giai điệu thứ nhất biểu hiện lòng yêu nước với tinh thần hiệp nhất thì giai điệu thứ hai là của cuộc cách mạng. Việt Bắc gửi gắm thông điệp về việc không chỉ nhớ đến “ta” mà còn phải nhớ đến “mình”, theo cách diễn đạt của tình yêu, không chỉ phải nhớ đến “em” mà còn phải nhớ đến “anh”. Đó là “anh” mà trước kia sống cùng “em”. Ta và mình đã trải qua mười lăm năm, tình nghĩa bền chặt biết bao nhiêu, anh hùng làm được bao nhiêu! Ta và mình đã viết lên những trang sử hào hùng của dân tộc, những địa danh như “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa”. Giờ đây xa cách, khi mình trở về thành thị, hãy nhớ đừng thay lòng đổi dạ với “ta”, cũng đừng thay lòng đổi dạ với chính mình:
“Khi ta về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?”
Việt Bắc hỏi dè chừng như vậy là một cách khôn khéo của nhà thơ Tố Hữu dự đoán những sự biến đổi trong tư tưởng sau thời gian hoà bình.
“Khi ta đi, ta có nhớ ta”
Đó là dòng thơ hay nhất trong bài “Việt Bắc”, cũng là một sáng tạo xuất sắc của Tố Hữu. Nhận lấy hết tình cảm ân nghĩa của Việt Bắc, bây giờ người về lên tiếng. Lời của người về cũng đầy chân thành:
“Mình với ta, ta với mình
Tâm ta sau trước mặn mà đậm đà,
Khi mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, tình nghĩa bấy nhiêu…”
Hai từ ta – mình vẫn quấn quýt, kết nối nhau bằng câu “Ta với mình, mình với ta” thật sâu sắc. Ý nghĩa không được phân chia mà hòa nhập thành một:
“Khi ta đi, ta lại nhớ ta”
(Trả lời cho câu hỏi: “Khi mình về, mình có nhớ ta”)
Thể hiện bằng ngôn ngữ của tình yêu như “Anh đi anh cũng nhớ em”. Nỗi nhớ của người ra đi là sâu đậm, tình nghĩa của họ dành cho Việt Bắc không có điểm dừng “Nguồn bao nhiêu nước, tình nghĩa bấy nhiêu”. Câu trả lời như vậy chắc chắn sẽ an ủi lòng người ở lại – Việt Bắc.
Như vậy, biến tấu của giai điệu một đã được phát triển và mở rộng ra khắp. Tất cả chỉ là một kỹ thuật để nhà thơ mô tả mối quan hệ sâu sắc giữa Việt Bắc và cuộc cách mạng, và tái hiện lại truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Bắc trong cuộc kháng chiến.
Để xoa dịu những nghi ngờ của người ở lại, người ra đi phải bày tỏ tình cảm sâu sắc nhất, phải so sánh với những cảm xúc cao quý nhất của con người:
“Nhớ như nhớ người yêu vậy
Trăng rọi đỉnh núi, nắng chiều ôm lưng núi”
Từ “nhớ” được lặp lại mạnh mẽ, mỗi lần đều đưa ta vào những kỷ niệm đáng quý giữa Ta và Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt được hồi ức (những điều nhỏ bé trong tình yêu thường là quan trọng nhất).
“Thương nhau, chia sẻ cả những khoảnh khắc đơn sơ
Chia sẻ bát cơm, che chở nhau trong suốt những tháng ngày”
Con người Việt Bắc trên lòng người về thật đáng yêu, đáng quý như thế nào:
“Nhớ mẹ dưới nắng chói chang
Mang con ra đồng, hái từng trái ngô.”
Một tiếng mõ trâu trong rừng chiều, tiếng chày đập vang dội từ bên suối đêm tối mãi mãi trong trái tim người về:
“Nhớ tiếng mõ trong rừng chiều
Âm thanh của chày, suối xa xa…”
Nói tóm lại, người về nhớ về vẻ đẹp thiên nhiên tươi mới của Việt Bắc, về bầu không khí thơ mộng và tình cảm thân thiết của con người Việt Bắc. Từ ngữ truyền đạt sự hào hùng của cuộc kháng chiến. Sự anh dũng của Ta và Mình lại được tái hiện qua những ký ức của người về:
“Nhớ lúc kẻ thù xâm nhập
Rừng núi Việt Bắc cùng chúng ta chống lại giặc Tây
Núi trở thành hàng rào sắt dày đặc
Rừng bao phủ bộ đội, bao vây quân địch.”
Thiên nhiên của Việt Bắc như mang trong mình linh hồn, được tác giả tạo hình nhân văn. Núi rừng Việt Bắc trở thành pháo đài sắt vững chắc và bảo vệ cho bộ đội, là bức tường bảo vệ 'vây', 'đánh' quân địch. Mỗi con dốc, con suối, con đường là một chiến công vẻ vang của quân dân Việt Bắc. Cảnh quân đội ra trận, cảnh dân công vận tải sôi nổi nhộn nhịp đêm ngày:
“Những con đường của Việt Bắc chúng ta
Đêm nào cũng rộn ràng như là đất đang rung lên
Quân đội ra chiến trường mạnh mẽ
Ánh sao trên đỉnh súng bạn, ánh đèn trên mũ non
Dân công đỏ lửa từng đoàn
Bước chân vang vọng trên đá, ngọn lửa bốc cháy.
Nghìn đêm dày sương thăm thẳm
Đèn pha sáng tỏ như ban mai sắp lên.”
Tác giả chuyển sang một lối diễn đạt trang trọng, linh thiêng để miêu tả nỗi nhớ thương của người về đối với Trung ương Cách mạng – Bác Hồ. Và hình ảnh của Việt Bắc trong ký ức của người về là quê hương của cuộc cách mạng, là căn cứ chiến đấu, là niềm tin, là hy vọng của toàn dân tộc.
Người về cũng không quên trả lời câu hỏi đầy xúc động của Việt Bắc:
“Khi trở về, mình lại nhớ về những nơi quen thuộc
Mái nhà Hồng Thái, cây đa Tân Trào” (2)
(Trả lời cho câu hỏi “Khi đi mình có nhớ mình”)
Từ “nhớ” được lặp lại đa dạng và mỗi từ đều đánh thức những kỷ niệm đáng quý giữa Ta và Mình. Những chi tiết nhỏ nhặt này được gợi nhớ lại, và trong tình yêu, những điều nhỏ nhặt chính là quan trọng nhất.
Với sự biến tấu của giai điệu hai, tác giả đã kết thúc phần một của bài thơ “Việt Bắc”. Chủ đề về lòng chung thủy - chung thủy với cách mạng đã được thể hiện sâu sắc ngay trong phần này.
“Việt Bắc” là một kiệt tác của Tố Hữu, đồng thời cũng là một kiệt tác của thơ cách mạng, thơ kháng chiến. Bài thơ này thể hiện sự tài năng đa diện của Tố Hữu, với sự đậm chất dân tộc trong thể thơ lục bát và lối hát đối đáp sôi động. Ngôn ngữ trong sáng, giàu cảm xúc, và sử dụng biện pháp tu từ một cách tinh tế.
Phân tích bài thơ Việt Bắc - mẫu 2
'Việt Bắc' của Tố Hữu được coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất trong thơ chiến tranh chống Pháp (1946 - 1954).
Bài thơ này với 150 câu lục bát, kết hợp âm điệu của ca dao, dân ca và vẻ đẹp cổ điển của thơ ca cách mạng, thể hiện sự trọng đại của một trường ca.
Bắt đầu bằng hình ảnh chia ly giữa Ta và Mình, giữa người ở lại và người về, bài thơ đã khơi gợi một biển cảm xúc thương nhớ, lưu luyến và sâu sắc.
Ta về, ta có nhớ mình
Mười lăm năm trôi qua vẫn đậm đà thương nhớ
Ta về, ta có nhớ chăng?
Nhìn cây, nhớ núi, nhìn sông, nhớ nguồn?
Hình ảnh 'áo chàm' xuất hiện trong buổi tiễn đưa đã tạo nên bức tranh về Việt Bắc, về màu sắc của núi rừng chiến khu, màu thương nhớ của mối tình quân dân 'đậm đà lòng son' suốt mười lăm năm cách mạng và kháng chiến:
Áo chàm, hình ảnh cuộc chia ly
Chúng ta nắm tay nhau, hôm nay biết nói điều gì...
Có biết bao kỷ niệm sâu đậm ẩn trong lòng, từ cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 cho đến chiến thắng Điện Biên và ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng (mùa thu năm 1954). Những câu hỏi của người ở lại hòa theo tiếng hát cùng vang lên trong tâm trí của người cán bộ kháng chiến: 'Mình về có nhớ... Mình đi có nhớ...'. Mình đi có nhớ những ngày 'nhóm lửa' gian khổ: 'Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù'. 'Mình về có nhớ chiến khu' thời đánh Pháp đuổi Nhật 'Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai'. Trong thiếu thốn gian khổ, nợ nước thù nhà khắc sâu hồn người, càng chất chứa trong lòng, càng đè nặng đôi vai: 'Mày sẽ chết! Thằng giặc Pháp hung tàn – Băm xương thịt mày tan mới hả' ('Dọn về làng' – Nông Quốc Chấn). Mình đi..., mình về... có nhớ, nhớ trám bùi, nhớ măng mai, nhớ lau xám, nhớ những địa danh lịch sử, nhớ 'Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?'. Nhớ Việt Bắc là 'Nhớ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh', nhớ đồng bào của dân tộc tuy nghèo khổ thiếu thốn nhưng tình nghĩa thủy chung son sắt với cách mạng. Những ẩn dụ, tượng trưng trong thơ Tố Hữu thật đầy xúc động, mở ra một không gian thương nhớ mênh mông với bao tình nghĩa vơi đầy:
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son.
Dần xa Việt Bắc, trên đường về Thủ đô, người cán bộ kháng chiến mang theo bao nỗi nhớ, chất chứa dào dạt trong tâm hồn về những kỷ niệm đẹp và sâu sắc:
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu....
Người đi, người về mang theo bao nỗi nhớ: nhớ mình, nhớ trăng lên đầu núi, nhớ nắng chiều lưng nương, nhớ bản khói cùng sương, nhớ bếp lửa, nhớ rừng nứa bờ tre, nhớ ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê,...
Trong những ngày 'đắng cay ngọt bùi' ấy, những hình ảnh như một củ sắn lùi, một bát cơm sẻ nửa, chiếc chăn sui... không bao giờ phai mờ trong ký ức của người về. Sự đồng lòng đồng cảm đã làm cho tình thương và nỗi nhớ ngày càng sâu đậm trong lòng:
'Thương nhau chia củ sắn lùi,
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng'.
Các từ ngữ: thương nhau, sẻ nửa, đắp cùng như những ngọn lửa thắp sáng vần thơ, làm cho tình đồng bào đồng chí, tình quân dân, tình cá nươcs thêm ấm áp.
Nhớ chiến khu, nhớ Việt Bắc, ta nhớ mình, nhớ người mẹ vất vả, tần tảo 'nắng cháy lưng, địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô'. Điệp ngữ 'nhớ sao' diễn tả bao da diết bồn chồn: nhớ sao lớp học i tờ, nhớ sao đuốc sáng những giờ liên hoan; nhớ tiếng hát giữa lưng đèo, vách núi, nhớ tiếng mõ rừng chiều, nhớ tiếng chày đêm nện cối... của khúc nhạc rừng chiến khu. 'Những hoa cùng người' của Việt Bắc trong bốn mùa đã trở thành mảnh tâm hồn của ta cùng với bao nỗi nhớ:
Ta về mình có nhớ ta,
Ta về ta nhớ những hoa cùng người,
Rừng sâu, hoa chuối đỏ rực,
Đèo cao, nắng gay gắt quấn quýt.
Ngày xuân trổ bông, rừng trắng bồng bềnh,
Nhớ người dệt nón, vuốt từng sợi mảnh.
Ve kêu, rừng vẫy cánh phượng vàng rực,
Nhớ em gái hái măng bên dốc đồi.
Rừng thu, ánh trăng soi bình yên,
Nhớ người với giọng hát ngọt ngào và tình yêu trung thành.
Đoạn thơ như một bức tranh tuyệt vời thể hiện vẻ đẹp cổ điển. Thiên nhiên và con người ở Việt Bắc được mô tả sinh động trong bức tranh tứ bình đẹp như tranh vẽ. Màu đỏ tươi của hoa chuối nổi bật giữa rừng xanh mùa đông và người đi nương, đi rẫy dưới ánh nắng trên đèo cao. Hoa mơ nở trắng rừng trong mùa xuân và người thợ thủ công khéo léo đan nón từng sợi. Rừng phách mùa hè mênh mông vàng óng trong tiếng ve, cùng hình ảnh cô gái Việt Bắc một mình đi hái măng giữa rừng tre. Giọng hát ngọt ngào và tình yêu trung thành vang lên trong rừng thu dưới ánh trăng xanh mát dịu. Tất cả đều trở thành ký ức đẹp trong lòng chúng ta, những người cống hiến cho cuộc chiến.
Tố Hữu đã sống và trải nghiệm hết tình cảm với Việt Bắc nên ông mới viết ra những dòng thơ ý nghĩa đó. Cảnh thiên nhiên tươi đẹp, hòa mình vào mùa xuân, hạ, thu, đông, mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng biệt, tạo nên một không gian mơ mộng. Con người Việt Bắc được tôn vinh là những người lao động: người làm ruộng, thợ thủ công, cô gái hái măng, và người mang trên mình tình yêu vàng son – tất cả là biểu tượng của tinh thần lao động, sự khéo léo và lòng yêu đời của đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Đọc bài thơ 'Việt Bắc', chúng ta không thể nào quên được cảnh thiên nhiên đẹp đẽ và con người hiền lành ấy.
Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu bất khả xâm phạm: 'Núi giăng thành lũy sắt dày'. Nhớ Việt Bắc là nhớ cuộc chiến tranh toàn dân với hình ảnh: 'Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây'. Nhớ Việt Bắc là nhớ chiến khu với niềm tự hào về sức mạnh của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của chiến thắng:
Mênh mông bốn phương mây sương,
Đất trời này là chiến khu vững vàng.
Tác giả đã sáng tạo ra những hình ảnh tượng trưng và ca ngợi chiến khu Việt Bắc, nơi vững vàng như cái nôi của cách mạng 'xây dựng Cộng hòa'. 'Có ai nhớ về đây không?' – Chúng ta nhớ và nhớ mãi. Nhớ những con đường chiến trường, nhớ những nơi ghi dấu lịch sử mà quân đội ta đã từng chiến đấu và hy sinh, làm cho giặc Pháp kinh hãi: 'nhớ Phủ Thông, đèo Giàng – Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng – Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà'. Một trời kỷ niệm không bao giờ phai mờ. Chúng ta về và nhớ những con đèo, những con sông, những ngọn núi..., những gì đã đi vào tâm hồn ta từ những ngày gian khổ và dũng cảm.
Nhớ Việt Bắc là nhớ những con đường chiến dịch, nhớ những đêm 'rộn ràng' tiến quân vào trận. Là nhớ những đội quân 'Đi bước lặng lẽ, điềm tĩnh' dưới bầu trời sao sáng. Là nhớ những đoàn công vận tải 'Bước chân trên đất nát đá' theo đuốc đỏ rực, cùng ánh đèn pha chiếu sáng của xe kéo pháo vào trận. Tiếng thơ vang lên như những khúc ca anh hùng thể hiện niềm tự hào trước tinh thần chiến đấu và chiến thắng của quân và dân ta trong ba nghìn ngày khói lửa:
Những con đường Việt Bắc của chúng ta,
Mỗi đêm rộn ràng như tiếng đất rung lên.
Quân đội tiến bước điềm tĩnh như sóng nhấp nhô
Với ánh sao chiếu sáng đầu súng, bạn và mũ bảo hiểm
Công nhân vận tải đỏ đuốc từng đội
Bước chân trên đất nát đá, qua muôn vàn ngọn lửa bén
Nghìn đêm sương mờ phủ kín
Ánh đèn pha soi sáng như hôm mai đã đến.
'Ai về có nhớ không' – Chúng ta về…, chúng ta nhớ nhiều và nhớ lắm!' Nhớ Việt Bắc là nhớ 'thủ đô của gió và mây' trong cuộc kháng chiến, là nhớ 'Ngọn cờ đỏ bay trong gió lồng cửa hang', là nhớ 'Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào', là nhớ 'Quê hương cách mạng xây dựng nên Cộng hòa'…
Chiến khu Việt Bắc là nơi đặt niềm tin của hàng triệu người dân và chiến sĩ trên mọi miền đất nước trong những năm tháng chiến đấu gian khổ: 'Nhìn về Việt Bắc: Cụ Hồ soi sáng… Nhìn lên Việt Bắc để nuôi dưỡng lòng quyết tâm'.
Việt Bắc là nơi sum họp mọi chiến công, mọi chiến thắng của quân và dân ta từ khắp các chiến trường gửi về; niềm vui chiến thắng tràn đầy:
Tin vui chiến thắng rộn rã từ khắp nơi
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui mừng đón nhận,
Vui từ Đồng Tháp, An Khê,
Hân hoan lên Việt Bắc, qua đèo De, ngang núi Hồng.
Sự đáp lại tình cảm của chúng ta được thể hiện rõ trong phần thứ hai của bài thơ 'Việt Bắc', khi tình thân gắn kết giữa người ở và người về, giữa miền xuôi và miền ngược càng trở nên sâu đậm. Món quà của Việt Bắc gửi về miền xuôi là những đặc sản, là 'cây nhà lá vườn', là hương vị của núi rừng:
Trở về quê hương, gửi về tình thân,
Thuyền nâu, trâu mộng cùng với bè nước sông quê.
Món quà đó càng làm cho tình thân giữa chúng ta trở nên vững chắc hơn, làm cho tình non nước càng thêm bền vững, và cuộc sống, cuộc đời thêm phong phú: 'Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng phai nhạt… Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui'.
'Việt Bắc' là một bài ca về tình thân. Có biết bao câu hỏi vang lên, như một lời nhắc nhở, như một ghi chú sâu sắc về những tình cảm tốt đẹp giữa quân dân, cách mạng và kháng chiến, giữa chính ta và mình:
Nhà cao còn nhìn thấy núi đồi không?
Buổi sáng, đèn vẫn nhớ đến ánh trăng giữa rừng chăng?
Khi nào Việt Bắc sẽ thêm phần phồn thịnh?
Hai từ 'ngày mai' như một lời hứa, mở ra một tương lai rộng lớn. Và đó cũng là niềm tin của những trái tim trung thành, trao đi tình yêu và lòng biết ơn:
Ngày mai trở về quê hương,
Rừng xưa, núi cũ ôm trọn yêu thương trong lòng.
Ngày mai sẽ rộn ràng trên khắp sơn khê,
Chạy lướt qua lại, mạng vây bao bọc…
Việt Bắc sẽ thay đổi theo sự biến đổi của đất nước. Các nhà máy mới sẽ mọc lên. Các phố phường sẽ phát triển. Sẽ có nhiều trường học mới để dạy dỗ tuổi thơ. Có 'Chợ náo nhiệt trên khắp các con đường'. Mối quan hệ ấm áp giữa miền xuôi và miền ngược sẽ trở nên sâu đậm, kết nối với nhau một cách chặt chẽ. Muối Thái Bình, lúa đồng ở Đông Xuất, mía đường từ tỉnh Thanh, chè Hương Canh… là những sản vật đặc biệt từ miền xuôi gửi lên miền ngược, góp phần làm cho cuộc sống mới thêm phong phú, tươi mới. Món quà của miền xuôi gửi lên miền ngược là món quà tình thân 'Ai gửi cho anh và cho em':
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng,
Vải tơ Nam Định, lụa Hà Đông.
Những món quà tình thân ấy đã làm cho lời hứa giữa chúng ta trở nên chặt chẽ hơn, làm cho tình yêu quê hương mãi mãi bền vững:
Nước suối chảy mãi không phai,
Mây đi vẫn nhớ về núi non quê nhà.
Dù đá mòn nhưng lòng vẫn không mòn…
Một trong những hình ảnh đẹp nhất mà Tố Hữu đã làm nổi bật trong bài thơ là hình ảnh của vị lãnh tụ được lòng dân tộc kính trọng. Ông Cụ đã từng hoạt động trong bí mật tại Cao Bằng. Người đã đến với Tân Trào trong những ngày của cuộc hội nghị quốc dân lịch sử. Người đã sống và chèo thuyền trên dòng sông Đáy. Bác đã tham gia vào chiến dịch biên giới… và bây giờ, Bác trở về với quân đội chiến thắng. Núi rừng Việt Bắc 'vẫn nhớ không quên Bác', ngẩn ngơ 'theo dõi bóng dáng Bác'. Bức chân dung của vị lãnh tụ vừa trang nghiêm và thiêng liêng, vừa gần gũi và đơn giản:
Chúng ta về với Bác theo con đường xuôi,
Đừng quên Việt Bắc vẫn nhớ Bác mãi.
Nhớ Ông Cụ với ánh mắt rạng rỡ,
Áo nâu kết túi vải đẹp và lạ lùng!
Nhớ về Bác trong sương sớm tinh khôi,
Yên bình ngựa đá trên đường suối hát
Nhớ bước chân Người lên đèo
Người đi, rừng núi nhìn theo bóng Người.
Ngàn năm non nước vẫn mãi sau này
Đời đời biết ơn Bác càng sâu càng bền.
'Việt Bắc' là sự pha trộn giữa nghệ thuật thơ ca dân gian và thơ ca cổ điển của dân tộc. Cách đối đáp theo lối ca dao dân ca được vận dụng sáng tạo. Tình cảm lưu luyến, bồi hồi giữa kẻ ở và người về gắn liền với hàng loạt kỷ niệm đắng ngắt, ngọt ngào trong suốt mười lăm năm qua, từ ngày 'kháng Nhật thuở còn Việt Minh' đến ngày chiến thắng hùng vĩ: 'Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về'. Hình ảnh quân dân kháng chiến, hình ảnh lãnh tụ kính yêu, cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, hùng vĩ, đẹp tươi… tất cả đã hòa quyện một cách hài hòa, tuyệt vời tạo nên bản sắc dân tộc và tính hiện đại của bài thơ tuyệt vời này.
'Việt Bắc' là khúc ca tình cảm và là bài hát ca anh hùng về cách mạng, về cuộc chiến và con người chiến đấu. Nó đã nâng cao tình yêu nước và lòng tự hào dân tộc. Tình bạn thân thiết là bài học sâu sắc đối với mỗi chúng ta, mãi mãi là trang bị trong cuộc sống của mỗi chúng ta.
'Thơ đẹp phải mang dư vị văn chương' như đã có người nói. Trải qua những năm tháng sống trong thời kỳ khó khăn, đầy thiếu thốn, đôi khi phải đối mặt với nghèo đói, nên khi đọc bài thơ 'Việt Bắc', nhiều người chưa cảm nhận được 'dư vị' của nó.
Chuyển sang thế kỷ XXI, đất nước chúng ta đang trải qua quá trình đổi mới từng ngày, từng giờ. Mặc dù cho đến nay (2008), Việt Bắc vẫn chưa có diện mạo 'Phố phường như nấm, như măng giữa trời', nhưng mọi người đều tỏ ra lạc quan và hy vọng. Dự đoán đó chính là 'dư vị văn chương' của bài thơ 'Việt Bắc'.
V. MỘT SỐ LỜI BÌNH VỀ TÁC PHẨM:
· “Tố Hữu không miêu tả nhân vật quần chúng bằng những nét trang trọng, giả dối. Tình cảm của nhân vật thơ anh thể hiện từ bản chất tầng lớp, từ cuộc sống thực tế. Người lính chiếm vị trí quan trọng trong tập thơ Việt Bắc, chính là những người nông dân nghèo khổ.”
(Hoàng Trung Thông - Đường mới của chúng ta, 1961)
· “Việt Bắc là tác phẩm thơ cao quý nhất mà Tố Hữu đã tạo ra”
(Xuân Diệu- 'Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu')