Đề bài
(trang 48, SGK Ngữ văn 8, tập 1)
Trong phần Đọc, bạn đã được tiếp xúc với các ví dụ mẫu của thể thơ thất ngôn bát cú và tứ tuyệt Đường luật. Hãy áp dụng những kỹ năng và kiến thức đọc hiểu đã hình thành, rèn luyện để viết bài văn phân tích một bài thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt Đường luật.
Yêu cầu:
- Tổng quan về tác giả và bài thơ (đề mục, chủ đề, thể thơ, ...); trình bày ý kiến tổng quát của tác giả về bài thơ.
- Phân tích nội dung cơ bản của bài thơ (đặc điểm của hình ảnh thiên nhiên, con người; tâm trạng của nhà thơ), tóm tắt ý chính của bài thơ.
- Phân tích một số đặc điểm nghệ thuật (các yếu tố cơ bản của thể thơ thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt Đường luật; nghệ thuật miêu tả cảnh, tả tình; nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ (từ ngữ, biện pháp từ, ...))
- Xác định vị trí, ý nghĩa của bài thơ.
Phương pháp giải - Chi tiết
1. TRƯỚC KHI VIẾT
a. Lựa chọn bài thơ
- Danh sách một số bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú hoặc tứ tuyệt Đường luật mà bạn đã học hoặc đã đọc.
- Chọn bài thơ bạn hiểu và thích để phân tích
b. Tìm ý
- Tìm hiểu nhan đề và bố cục của bài thơ để nhận biết đề tài và nội dung chính
- Phân chia bài thơ thành các phần và xác định nội dung chính của từng phần.
- Tìm các đặc điểm nổi bật về nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ
- Tìm hiểu thông tin cơ bản về tác giả, về hoàn cảnh sáng tác để hiểu thêm về bài thơ
c. Lập kế hoạch
2. VIẾT BÀI
- Khi viết bài, cần tuân theo kế hoạch đã lập; sử dụng đa dạng các hình thức trích dẫn; kết hợp phân tích với nhận xét, đánh giá
- Sử dụng từ ngữ chính xác, lựa chọn kỹ lưỡng; diễn đạt rõ ràng, thể hiện được cảm xúc của người viết
- Chú ý sự khác biệt về yêu cầu, mục đích của loại bài ghi lại cảm xúc sau khi đọc một bài thơ và loại bài phân tích một bài thơ
3. CHỈNH SỬA BÀI VIẾT
Đọc lại bài viết, so sánh với yêu cầu của loại bài và kế hoạch đã lập để chỉnh sửa
Giải đáp chi tiết
Bài tham khảo:
Nếu trong văn học hiện đại, chúng ta thấy sự sắc sảo, mạnh mẽ, bứt phá trong thơ của Hồ Xuân Hương, thì chắc chắn sẽ nhận ra sự điềm tĩnh, nhẹ nhàng, trầm buồn của Bà Huyện Thanh Quan. Bài thơ 'Qua đèo Ngang' là minh chứng cho phong cách ấy.
Bài thơ 'Qua đèo Ngang' được viết khi tác giả đến Phú Xuân (Huế) nhận chức và đi qua đèo này. Cảm hứng chính của bài thơ là nỗi buồn man mác, nhớ nhà, nhớ quê hương và thương cho con gái ở xa. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú với cấu trúc đề, thực, luận kết.
Chỉ trong 8 câu thơ nhưng đã thể hiện được tinh thần và linh hồn của cảnh vật cũng như của con người khi đứng trước cảnh trời núi hiu quạnh như vậy. Hai câu đề đưa ra khung cảnh hoang sơ nơi đèo Ngang:
Bước chân đến đèo Ngang, bóng chiều dần buông
Cỏ cây lẫn lá, lá phủ kín hoa
Không gian và thời gian ở đèo Ngang được tác giả miêu tả qua từ 'bóng chiều dần buông'. Đây có thể coi là thời gian cùng với cảm xúc trong lòng người dường như nặng nề, gợi lên nỗi buồn sâu xa. Trong truyền thống văn hóa dân gian, chúng ta thường gặp thời điểm chiều để đặc tả nỗi buồn không thể chia sẻ. Mặt trời dần lặn, hoàng hôn chuẩn bị che phủ nơi này.
Cảm giác cô đơn, lạc lõng. Cảnh vật thiên nhiên ở đèo Ngang dường như trống trải đến đau lòng. Chỉ có cỏ cây và hoa. Từ 'lẫn' dường như làm tăng thêm sự hiu quạnh của địa điểm này. Hoa lá vẫn quấn quýt lấy nhau, gắn bó để sống, phát triển.
Lặng lẽ dưới núi, vài đứa trẻ lom khom
Rối bời bên sông, mấy nhà hàng xóm
Trong hai câu này, chỉ thấy được hình ảnh của con người một cách mờ nhạt, nhưng cũng chỉ là 'vài đứa trẻ lom khom'. Thực ra chỉ là một vài đứa trẻ bé nhỏ đang đi nhặt củi ở dưới chân núi. Mặc dù có sự sống nhưng mong manh và hư vô quá. Với cấu trúc ngữ pháp khác biệt trong hai câu thơ này, Bà Huyện Thanh Quan đã nhấn mạnh sự hoang sơ, hiu quạnh của đèo Ngang.
Việc sử dụng từ 'lom khom' và 'rối bời' không chỉ mô tả công việc gánh củi vất vả mà còn cho biết số lượng cụ thể. Những hình ảnh mà Bà Huyện Thanh Quan sử dụng trong thơ đã thể hiện được tinh thần và cảm xúc của tác giả lúc đó. Cuộc sống hiếm hoi, cô đơn và mong manh đang hiện diện trước mắt nhưng rất xa xôi. Việc tìm kiếm một người để chia sẻ cũng trở nên khó khăn. Sang hai câu thơ tiếp theo, cảm xúc và tâm trạng của tác giả bất ngờ bộc lộ:
Nhớ nhà, lòng nhói buốt con chim cuốc cuốc
Thương nhớ quê nhà, mệt mỏi dưới mái ấm gia đình
Âm thanh của 'con cuốc cuốc' và 'cái da da' tạo nên một bầu không khí êm đềm, nhẹ nhàng nhưng đầy ẩn sâu đến tận tâm can. Người du khách đi xa nghe tiếng cuốc và da da vang vọng, lòng lại cảm thấy lạc quan buồn bã. Sự kỹ thuật sử dụng cảnh tĩnh trong động tả của tác giả thật sự tinh tế, trên nền tĩnh lặng, hư không của cảnh vật, có tiếng chim kêu thật sự làm cho tâm trạng trở nên sâu lắng và buồn thê thảm hơn.
Nghe tiếng cuốc, tiếng da da, tác giả lại nhớ về quê hương, lại cảm thấy 'thương nhà'. Thương những ngày tháng ấm áp trong gia đình, thương những khoảnh khắc bình yên mà bây giờ đã trở nên hỗn loạn, gia đình tan vỡ; thương cho người thân phải xa nhà, lạc lõng, buồn bã. Nỗi lòng của bà huyện thanh quan sâu sắc như một vực thẳm không đáy, u uất không lời. Hai câu thơ cuối cùng làm cho cảm xúc và tình cảm của tác giả bùng cháy lên:
Dừng chân lại, đứng trước vẻ đẹp của thiên nhiên
Một mảnh tâm hồn tự do với chính mình
Chỉ bốn từ 'dừng chân nghỉ lại' đã khiến người đọc cảm thấy xúc động, lo lắng đến tận sâu thẳm. Bầu trời và đại dương bao la, vô tận, nhưng con người lại nhỏ bé, khiến tác giả cảm thấy mình lạc lõng, không điểm tựa. Trời đất bao la, nhưng tác giả chỉ cảm nhận được 'một mảnh tâm hồn riêng'. Nỗi buồn trở nên cực độ, thấm đến tận đáy lòng, buồn rơi rơi trong trời đất.
Bài thơ 'Qua đèo Ngang' với tông điệu sâu lắng, đậm chất, và những kỹ thuật nghệ thuật độc đáo đã gợi lên trong người đọc những cảm xúc khó phai. Hồi âm của bài thơ cứ như vẫn vang vọng khắp nơi.