Câu 1
Bài mẫu phân tích bài thơ Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính) theo tuyến hình ảnh trải dọc và trình tự câu thơ, khổ thơ. Phương pháp này có ưu điểm gì nổi bật?
Phương pháp giải:
- Đọc kỹ bài mẫu.
- Xác định những nét đặc sắc trong cách cảm nhận bài thơ Mùa xuân xanh và nêu ưu điểm của phương pháp này.
Lời giải chi tiết:
Ưu điểm của phương pháp phân tích thơ theo tuyến hình ảnh và trình tự câu thơ, khổ thơ:
- Chỉ ra hình ảnh nổi bật trong bài thơ, giúp đánh giá và nhận xét chính xác suy nghĩ, quan niệm của tác giả.
- Làm rõ mạch cảm xúc của bài thơ, phân tích rõ ràng từng câu, từng khổ thơ để người đọc hiểu được nội dung bài thơ từ đầu đến cuối.
- Với Mùa xuân xanh, phương pháp này làm nổi bật nội dung, phân tích các biện pháp nghệ thuật và nhấn mạnh chi tiết, hình ảnh quan trọng trong bài thơ.
=> Phương pháp giúp người đọc dễ dàng cảm nhận và hiểu rõ bài thơ, không bỏ qua chi tiết nào.
Câu 2
Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là gì?
Phương pháp giải:
- Đọc kỹ bài mẫu.
- Xác định cách phân tích, đánh giá một tác phẩm thơ và nêu thực chất của việc phân tích chủ đề.
Lời giải chi tiết:
Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một tác phẩm thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là cảm nhận cá nhân về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Việc này giúp làm nổi bật nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đồng thời đánh giá quan niệm của tác giả.
Câu 3
Người viết đã đánh giá bài thơ như thế nào? Nhận xét tổng quan về tính thuyết phục của đánh giá đó.
Phương pháp giải:
- Đọc kỹ bài mẫu.
- Dựa vào câu văn thể hiện thái độ, đánh giá của người viết về bài thơ để nhận xét tổng quan về tính thuyết phục của đánh giá đó.
Lời giải chi tiết:
- Người viết đánh giá bài thơ giản dị nhưng toát lên sức sống phơi phới của mùa xuân. Bài thơ thể hiện niềm vui sống, sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, là khúc dạo đầu của tình yêu đôi lứa.
- Tính thuyết phục của đánh giá:
+ Người viết phân tích từng câu, từng hình ảnh để làm nổi bật giá trị nội dung của bài thơ.
+ Người viết phân tích biện pháp tu từ trong bài thơ và nhận xét phong cách nghệ thuật của tác giả.
+ So sánh với các bài thơ cùng chủ đề để đánh giá.
=> Đánh giá của người viết có sức thuyết phục, có luận điểm, lý lẽ và bằng chứng xác đáng, làm nổi bật giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Thực hành viết
Viết bài văn phân tích và đánh giá bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) của Đỗ Phủ.
Hướng dẫn:
- Đọc lại bài thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu).
- Xem lại nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
- Dựa vào kiến thức đã học để viết bài văn cảm nhận về bài thơ.
Dàn ý
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Đỗ Phủ: là nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc, bộc lộ cảm xúc về hiện thực và tình cảm, phản ánh chiến tranh và nạn đói, tình yêu nước và nhân đạo.
- Khái quát bài thơ Thu hứng: Là bài thơ đầu tiên trong chùm 8 bài thơ Thu hứng của Đỗ Phủ, thể hiện tâm trạng của nhà thơ với quê hương, đất nước.
2. Thân bài
a) Bốn câu đầu: Cảnh thu
- Hình ảnh thơ cổ điển miêu tả mùa thu Trung Quốc: “ngọc lộ”, “phong thụ lâm”.
- 'Vu sơn Vu giáp”: địa danh nổi tiếng ở Quỳ Châu, Trung Quốc, mùa thu âm u, mù mịt.
- “Khí tiêu sâm”: hơi thu hiu hắt, ảm đạm.
* Hai câu thực:
- Hình ảnh đối lập: sóng vọt lên tận trời (thấp – cao), mây sa sầm xuống mặt đất (cao – thấp), mở rộng không gian nhiều chiều:
+ Tầng xa: giữa sông thăm thẳm là “sóng vọt lên tận lưng trời”.
+ Tầng cao: Ở miền quan ải với mây sa sầm giáp mặt đấy.
+ Tầng rộng: mặt đất, bầu trời, dòng sông gợi không gian rộng lớn.
- Hình ảnh đối lập: sóng – vọt lên tận trời (thấp – cao), mây – sa sầm xuống mặt đất (cao – thấp).
+ Bốn câu thơ vẽ bức tranh mùa thu xơ xác, tiêu điều, hùng vĩ, dữ dội.
+ Tâm trạng buồn lo và bất an của nhà thơ trước hiện thực âm u.
b) Bốn câu sau: Tình thu
* Hai câu luận:
- Hình ảnh ẩn dụ, tượng trưng:
+ Hoa cúc: hình ảnh ước lệ chỉ mùa thu.
+ Khóm cúc nở hoa hai lần: Có thể hiểu là khóm cúc nở ra làm rơi giọt nước mắt, hoặc khóm cúc nở ra giọt nước mắt.
+ “Cô phàm”: phương tiện đưa tác giả về “cố viên”, đồng thời gợi thân phận lẻ loi, cô đơn của tác giả.
- Cách dùng từ độc đáo, hàm súc:
+ “Lưỡng khai”: nỗi buồn trải dài từ quá khứ đến hiện tại.
+ “Nhất hệ”: Dây buộc thuyền cũng là sợi dây buộc mối tình của tác giả.
+ “Cố viên tâm”: Lòng hướng về quê cũ. Thân phận của kẻ tha hương luôn gợi nỗi nhớ quê.
=> Hai câu thơ diễn tả nỗi lòng dồn nén, da diết về quê hương của tác giả.
* Hai câu kết
- Hình ảnh:
+ Mọi người bận rộn may áo rét.
+ Giặt áo rét chuẩn bị cho mùa đông.
- Âm thanh: tiếng chày đập vải.
=> Âm thanh báo hiệu mùa đông đến, là tiếng lòng, diễn tả mong ngóng ngày được trở về quê.
- Bốn câu thơ diễn tả nỗi buồn của người xa quê, mong ngóng ngày về.
3. Kết bài
Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.
Bài văn mẫu
Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại của Trung Quốc, với thơ phản ánh hiện thực, bày tỏ cảm xúc, thái độ, tâm trạng đau khổ trước thực trạng nhân dân trong chiến tranh, nạn đói, đầy tình yêu nước và tinh thần nhân đạo. Trong số những bài thơ đặc sắc có Thu hứng (Cảm xúc mùa thu), bài thơ đầu tiên trong chùm thơ tám bài sáng tác năm 766 khi ông sống phiêu dạt ở Quý Châu. Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) là bức tranh mùa thu u sầu, hắt hiu, đồng thời là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li; lo cho tình hình đất nước đang rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.
Phiên âm chữ Hán:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Trong bài thơ, bốn câu đầu là 'câu đề' với mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la nhưng mang nỗi buồn hiu hắt ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Người đọc nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế tầm nhìn của ông rộng rãi. Mọi thứ được miêu tả theo chiều sâu, theo tầm mắt tác giả nhìn về phía xa xăm. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện ngay từ câu thơ đầu khi tả cảnh rừng phong với sương còn phủ trên lá cây; tạo ra cảnh tượng buồn, hình ảnh rừng phong càng nhấn mạnh sự li biệt khi lá phong chuyển sang đỏ vào mùa thu. Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu vì mỗi thu về, cả rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương móc tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong, nét tiêu điều của cảnh vật hiện rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng buồn của nhà thơ.
Câu thứ hai nhắc đến hình ảnh Vu sơn, Vu giáp, gợi hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia – nơi toàn cảnh bị bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Vu sơn, Vu giáp là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng bởi hiểm trở và hùng vĩ, nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Mây mù bao phủ ngọn núi cao vút; vách núi thì dựng đứng, ánh mặt trời khó lọt xuống lòng sông. Vì vậy vào mùa thu, khung cảnh âm u, lạnh lẽo và qua ngòi bút miêu tả đầy tâm trạng của Đỗ Phủ nó càng thêm tối tăm, ảm đạm.
Hai câu mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu núi non. Cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn với con mắt và tâm trạng giống nhau – trĩu nặng nỗi buồn thương. Hai câu thơ tả rừng núi chung một điểm là nỗi buồn dần thấm vào tác giả, chế ngự tâm trạng và cảm xúc khi ông đặt bút ngâm thơ.
Cũng với tâm trạng đó, Đỗ Phủ viết nên những câu thơ tiếp theo mang nét tả thực ám ảnh, có ma lực cuốn hồn người:
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Hai câu mở đầu hình ảnh rừng phong, là sự quan sát từ trên cao, hai câu tiếp theo miêu tả cảnh sắc hùng vĩ và dữ dội. Hai câu đề cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi), hai câu thực cảnh thu dưới thấp. Hai cặp câu bổ sung nhau, lột tả phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ. Những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và miêu tả bằng ngọn bút tài hoa thành những vần thơ tuyệt mỹ. Hình ảnh mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng như đùn từ mặt đất lên, che lấp cửa ải phía xa. Bốn câu thơ tả cùng cảnh nhưng mỗi câu là nét chấm phá riêng, là sự nhìn nhận toàn cảnh, không tập trung vào điểm cụ thể nào. Cảnh sắc trời mây non nước, rừng núi hiện ra cụ thể và đặc trưng cho mùa thu, nhưng hình ảnh này lại khiến tác giả nhớ quê hương đến nao lòng.
Bốn câu sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất chỉnh vừa là cảnh thu vừa là tình thu:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Hình ảnh rừng phong gắn liền mùa thu, hình ảnh hoa cúc đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, tưởng như không mới nhưng điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa, nhà thơ lại rơi lệ. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc gợi nhớ những mùa thu quê cũ, càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào. Hình ảnh chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) ẩn dụ đầy ý nghĩa, không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện chở ước vọng của nhà thơ về quê trong tâm tưởng.
Hai câu cuối đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đem đến cho bức tranh sinh hoạt biên ải xa xôi thoáng vui nhưng không đủ xua đi áng mây buồn trong tâm hồn thi sĩ. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang, mong ngóng ngày trở về quê của tác giả.
Bốn câu cuối tập trung miêu tả cảm xúc, những vần thơ chứa đựng nhiều tình cảm, đó là lòng mong ngóng quê nhà, nỗi khát khao trở về quê hương, tình yêu và sự buồn bã khi sống tha phương. Bốn câu thơ diễn tả nỗi buồn của người xa quê, ngậm ngùi, mong ngóng ngày trở về quê hương.
Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là kết cấu chặt chẽ, câu nào cũng bám chủ đề, thể hiện hai yếu tố “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả thâu tóm thần thái mùa thu trong bài thơ.
Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) là bài thơ mang dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ. Bài thơ cho thấy tâm hồn thi sĩ vừa nhạy cảm vừa rung động mãnh liệt với cảnh sắc. Trái tim Đỗ Phủ dành trọn cho quê hương, qua bài thơ, tư tưởng 'yêu nước thương đời' càng rõ nét. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ. Những vần thơ của ông có sức lay động mãnh liệt, mở ra khung cảnh rõ ràng… Ông xứng đáng được tôn vinh là bậc “Thi thánh” của thời Thịnh Đường danh tiếng muôn đời.