Mặc dù được biết đến với tác dụng chống sâu bọ theo quan niệm dân gian, nhưng những món ăn trong ngày 5/5 âm lịch như thịt vịt, rượu nếp và bánh tro còn góp phần giải nhiệt trong những ngày oi bức đầu hè.
Dù ở bất kỳ đâu, làm gì, vào ngày 5/5 âm lịch, nhiều người thường lãng quên về những kí ức về ẩm thực trong dịp Tết Đoan Ngọ, hay còn được gọi là 'ngày giết sâu bọ.'
Cơm rượu nếp
Với ý nghĩa loại bỏ sâu bọ, cơm rượu nếp là món ăn không thể thiếu trong sáng ngày Tết Đoan Ngọ. Theo quan niệm dân gian, hương vị nồng của cơm nếp hòa quyện với vị cay của rượu có tác dụng loại bỏ những loại ký sinh có hại trong cơ thể. Gạo được chọn để nấu cơm rượu nếp thường là gạo nếp cẩm, hoặc nếp cái hoa vàng, ngon nhất là gạo nếp lứt, hạt nâu vàng, óng ả. Sau đó, gạo được nấu, để nguội và ủ lên men để tạo ra những hạt cơm chắc mà dẻo, quyện với hương thảo dược của men rượu, cay nhẹ nhàng nhưng vẫn để lại dư vị ngọt trên đầu lưỡi.
Món cơm rượu nếp rất phổ biến trên khắp cả nước, nhưng ở mỗi vùng, nó lại mang đặc điểm riêng về thời gian và cách ủ. Cơm rượu nếp miền Bắc thường để rời từng hạt, còn cơm rượu ở miền Trung thì được ép thành từng khối, trong khi ở miền Nam, cơm rượu thường được làm thành những viên tròn.

Vịt ngon miền Trung
Không phổ biến như cơm rượu nếp, thịt vịt là một món ăn không thể thiếu trong ngày Tết 'giết sâu bọ' của người dân miền Trung. Vịt, với tính hàn, mang đến cảm giác mát mẻ, bổ dưỡng trong những ngày oi bức đầu tháng 5 âm lịch (lập hạ). Một số cũng tin rằng, từ ngày mùng 5/5 (âm lịch) trở đi, vịt sẽ trở nên béo ngậy, thơm ngon hơn.
Trong ngày này, các chợ miền Trung và một số chợ ở miền Bắc thường rộn rã với hoạt động mua bán vịt sống. Vịt, sau khi mua về, được chế biến thành nhiều món như vịt luộc chấm mắm gừng, vịt kho, bún măng vịt hay vịt om sấu ăn kèm bún. Trong đó, món tiết canh vịt là phổ biến nhất.

Bánh tro truyền thống
Cùng với nhiều loại hoa quả đầu mùa như mận, vải, xoài, măng cụt..., bánh tro là món ăn truyền thống trong dịp Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam. Bánh tro có nhiều tên khác nhau như bánh ú tro, bánh gio hay bánh âm. Màu vàng đậm của bánh là do gạo nếp được ngâm từ nước tro đốt bằng củi của các loại cây khô, sau đó bánh được gói trong lá chuối rồi đem luộc.
Tùy từng vùng, bánh tro có hình dáng khác nhau như thuôn dài hay chóp tam giác. Bên trong bánh thường chứa nhân mặn hoặc ngọt, đôi khi không có nhân. Bánh tro dễ ăn, dễ tiêu và làm mát ruột, thường ăn kèm với đường hoặc mật. Vị thanh mát của bánh tro hòa quyện với vị ngọt ngào của đường mật khiến ai ăn một lần cũng phải lưu luyến với món bánh giản dị này.

Bánh khúc ngon miền núi
Khác với người Kinh với cơm rượu nếp, bánh tro, thịt vịt, người Nùng ở Mường Khương, Lào Cai, có món bánh khúc. Nguyên liệu gồm gạo nếp ngon, rau khúc, đậu xanh, và hạt vừng đen. Bánh khúc có hình thù và cách làm gần giống bánh dày.
Gạo, sau khi ngâm kỹ, giã chung với rau khúc thành bột mịn và nắm thành từng viên nhỏ. Đậu xanh được xay vỡ, đãi sạch vỏ, và đun chín. Hành được phi chín vàng, sau đó trộn đều với hạt vừng đen để làm nhân cho bánh. Bánh khúc có thể hấp hoặc rán tùy thuộc vào sở thích, nhưng hấp là cách làm hấp dẫn nhất, khiến bánh nở phồng, giữ hương vị thơm của lá khúc cùng hương vị đậu xanh, hành, và vị ngậy của vừng đen.
Chè kê hương vị Huế

Chè kê là một món ăn đặc trưng cho ngày Tết Đoan Ngọ ở Huế. Hạt kê sau khi được xay, vỏ được lược sạch và đun sôi đến khi mềm, sệt. Sau đó, thêm đường và nước gừng để tạo ra nồi chè thơm phức với màu vàng kê quyến rũ.
Chè kê nấu đơn giản nhưng chứa nhiều chất dinh dưỡng hơn so với các loại ngũ cốc khác. Đồng thời, có tác dụng bồi bổ khí huyết và cân bằng thể trạng cho những người thường xuyên tiêu thụ đồ ăn và thức uống giải nhiệt.
Chè kê tại Huế độc đáo với bánh tráng mè
Theo Nguồn: VnExpress
***
Tham khảo: Hướng dẫn du lịch Mytour.com
Mytour.comNgày 18 tháng 6 năm 2014