Hươu cao cổ | |
---|---|
Khoảng thời gian tồn tại: Trung Tân tới nay 11.61–0 triệu năm trước đây TiềnЄ
Є
O
S
D
C
P
T
J
K
Pg
N
| |
Hươu cao cổ Masai (G. c. tippelskirchi) tại Công viên Quốc gia Mikumi, Tanzania | |
Tình trạng bảo tồn
| |
Sắp nguy cấp (IUCN 3.1) (tính theo phức hợp loài) | |
Phân loại khoa học | |
Vực: | Eukaryota |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Chordata |
nhánh: | Mammaliaformes |
Lớp: | Mammalia |
Bộ: | Artiodactyla |
Họ: | Giraffidae |
Chi: | Giraffa Brisson, 1762 |
Loài: |
G. camelopardalis
|
Danh pháp hai phần | |
Giraffa camelopardalis Linnaeus, 1758 | |
Loài và phân loài | |
Địa bàn sinh sống của các loài hươu cao cổ |
Chi Hươu cao cổ (tên khoa học Giraffa) là nhóm động vật có vú thuộc bộ Guốc chẵn, nổi bật với chiều cao khổng lồ trên cạn và kích thước lớn của nhóm nhai lại. Chúng thuộc họ Giraffidae, với họ hàng gần nhất hiện tồn là hươu đùi vằn. Chi này bao gồm 11 loài, trong đó có loài tiêu biểu Giraffa camelopardalis. Trong số này, có bảy loài đã tuyệt chủng được biết đến qua hóa thạch, và hiện tại còn bốn loài còn sống. Dù trước đây Giraffa được chia thành chín phân loài, nghiên cứu DNA ty thể đã xác nhận chỉ còn bốn loài còn tồn tại. Vì vậy, chi Giraffa hiện có các loài Giraffa giraffa (hươu cao cổ phương nam), Giraffa tippelskirchi (hươu cao cổ Maasai), Giraffa reticulata (hươu cao cổ Somalia) và Giraffa camelopardalis (hươu cao cổ phương bắc).
Hươu cao cổ phân bố rộng rãi từ Tchad ở phía bắc đến Nam Phi ở phía nam, và từ Niger ở phía tây đến Somalia ở phía đông châu Phi. Chúng thường sống trong môi trường xavan, đồng cỏ và rừng thưa. Chế độ ăn chính của chúng là lá cây keo mà chúng gặm được ở độ cao mà các động vật ăn cỏ khác không thể tiếp cận. Sư tử có thể tấn công hươu cao cổ, và những con non thường bị báo hoa mai, linh cẩu đốm và chó hoang châu Phi nhắm tới. Khi chiến đấu, hươu cao cổ đực sử dụng cổ của mình như một vũ khí để củng cố vị trí xã hội của chúng.
Định nghĩa từ nguyên
Tên khoa học camelopardalis có nguồn gốc từ tiếng Latin. 'Camelopard' là từ tiếng Anh cổ để chỉ hươu cao cổ, kết hợp giữa camel (lạc đà) và leopard (báo hoa mai).
Kameelperd là từ chỉ loài động vật này trong tiếng Afrikaans. Hươu cao cổ được gọi bằng các tên khác nhau trong nhiều ngôn ngữ châu Phi: ekorii (Ateso), kanyiet (Elgon), nduida (Gikuyu), tiga (Kalenjin và Luo), ndwiya (Kamba), nudululu (Kihehe), ntegha (Kinyaturu), ondere (Lugbara), etiika (Luhya), kuri (Ma'di), oloodo-kirragata hoặc olchangito-oodo (Maasai), lenywa (Meru), hori (Pare), lment (Samburu) và twiga (Swahili và các tên khác) ở khu vực phía đông châu Phi; và tutwa (Lozi), nthutlwa (Shangaan), indlulamitsi (Siswati), thutlwa (Sotho), thuda (Venda) và ndlulamithi (Zulu) ở khu vực phía nam.
Đặc điểm
Toàn thân hươu cao cổ được bao phủ bởi những đốm không đều trên lớp lông từ màu vàng đến đen, phân chia bởi các màu trắng, trắng nhờ, vàng nâu. Con đực có thể cao từ 4,8 đến 5,5 mét (16 đến 18 foot) và nặng lên tới 1.300 kilôgam (3.000 pound). Kỷ lục ghi nhận một con hươu cao cổ cao tới 5,87 m (19,2 ft) và nặng khoảng 2.000 kg (4.400 lb). Giống cái thường thấp hơn và nhẹ hơn một chút, với trọng lượng khoảng 828 kg.
Hươu cao cổ thuộc họ hươu và bò, nhưng được phân loại vào họ riêng biệt gọi là họ Hươu cao cổ, bao gồm hươu cao cổ và loài gần gũi nhất là hươu đùi vằn. Phạm vi phân bố của hươu cao cổ kéo dài từ Tchad đến Nam Phi.
Hươu cao cổ có thể sống ở các thảo nguyên, đồng cỏ hoặc rừng núi. Tuy nhiên, khi nguồn thức ăn trở nên khan hiếm, chúng sẽ liều mình vào các khu vực có cây cối dày đặc hơn. Chúng thường ưa thích những vùng đất có nhiều cây keo. Loài này uống một lượng nước lớn mỗi lần và có khả năng giữ nước lâu trong cơ thể, cho phép chúng sống ở những nơi khô cằn trong thời gian dài.
Hươu cao cổ có khả năng chạy rất nhanh và trong tình huống khẩn cấp, chúng có thể đạt vận tốc tối đa lên tới 55 km/h. Điều này có nghĩa là trong một khoảng cách ngắn, chúng có thể theo kịp cả ngựa đua.
*Cái cổ của hươu cao cổ đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện hành vi giới tính và xã hội. Theo các nhà khoa học, những con hươu cao cổ đực thường dùng cổ để 'vuốt ve' nhau, quấn quanh nhau một cách duyên dáng. Sau đó, hành vi bạo lực giữa hai con đực có thể xảy ra.
*Hành động này tương tự như cuộc chiến giữa hai con đực để tranh giành con cái trong thế giới động vật. Tuy nhiên, điểm khác biệt là sau những trận chiến căng thẳng, hai con đực lại bắt đầu giao cấu với nhau. Phần lớn hành vi quan hệ giữa hươu cao cổ đực bao gồm việc 'vuốt ve' bằng cổ (như trong hình 'Hai con hươu cao cổ Nam Phi') và quan hệ qua đường hậu môn.
*Hươu cao cổ thường sống tách biệt theo giới tính, và hành vi 'vuốt ve' bằng cổ thường chỉ xảy ra giữa các con đực. Trong một nghiên cứu kéo dài ba năm tại vườn quốc gia Tanzania, các nhà nghiên cứu đã dành 3.200 giờ quan sát và phát hiện ra 16 trường hợp hai con đực quan hệ với nhau. Họ cho rằng đây là hành vi thể hiện địa vị trong loài hươu cao cổ, nhưng không có bằng chứng rõ ràng. Trong cùng khoảng thời gian, chỉ có một cặp hươu cao cổ đực-cái quan hệ với nhau. Báo cáo cho thấy 94% hành vi quan hệ mà họ quan sát được là quan hệ đồng giới.
Phân loại
Vào năm 1758, Carl Linnaeus đã phân loại hươu cao cổ thành một loài riêng biệt và đặt tên là Cervus camelopardalis. Đến năm 1772, Morten Thrane Brünnich đã phân loại chi Giraffa. Tên loài camelopardalis có nguồn gốc từ tiếng Latinh.
Quá trình tiến hóa
Hươu cao cổ là một trong hai chi còn tồn tại của họ Giraffidae thuộc bộ Artiodactyla, chi còn lại là okapi. Trước đây, họ Giraffidae từng rất đa dạng với hơn 10 chi hóa thạch đã được mô tả. Họ hàng gần nhất có thể là loài hươu cao cổ đã tuyệt chủng. Chúng cùng với họ Antilocapridae (với loài duy nhất còn tồn tại là pronghorn) được xếp vào siêu họ Giraffoidea. Những loài động vật này có thể đã tiến hóa từ họ Palaeomerycidae đã tuyệt chủng, và có thể là tổ tiên của hươu cao cổ.
Sự kéo dài của cổ hươu cao cổ dường như đã bắt đầu từ rất sớm trong tiến hóa của chúng. So sánh với các họ hàng cổ đại cho thấy rằng các đốt sống gần hộp sọ đã dài ra trước, sau đó là các đốt sống ở phần dưới. Tổ tiên của hươu cao cổ, Canthumeryx, đã sống cách đây từ 25–20 triệu năm và các hóa thạch của chúng đã được phát hiện ở Libya. Loài này có kích thước trung bình, mảnh mai, và trông giống như linh dương. Giraffokeryx, xuất hiện khoảng 15 triệu năm trước ở tiểu lục địa Ấn Độ, có thể là tổ tiên của loài okapi hoặc một dạng hươu cao cổ nhỏ với cổ dài và các ossicones tương tự. Giraffokeryx có thể có mối liên hệ với các loài hươu cao cổ như Sivatherium và Bramatherium.
Các loài hươu cao cổ như Palaeotragus, Shansitherium và Samotherium xuất hiện khoảng 14 triệu năm trước và phân bố rộng rãi ở châu Phi và Âu-Á. Những loài này có xương đá trần và sọ dài hơn với hộp sọ rộng hơn. Paleotragus giống như chi okapi và có thể là tổ tiên của nó. Một số nghiên cứu cho rằng dòng dõi okapi đã tách ra sớm hơn so với Giraffokeryx. Samotherium là một hóa thạch quan trọng trong dòng dõi hươu cao cổ vì đốt sống cổ của nó có cấu trúc trung gian giữa hươu cao cổ hiện đại và okapi. Bohlinia, xuất hiện ở Đông Nam Châu Âu và sống từ 9-7 triệu năm trước, có thể là tổ tiên trực tiếp của hươu cao cổ. Bohlinia có nhiều điểm tương đồng với hươu cao cổ hiện đại, với cổ và chân dài, xương và răng tương tự. Bohlinia di cư vào Trung Quốc và miền bắc Ấn Độ để thích nghi với biến đổi khí hậu. Chi Giraffa phát triển từ đó và khoảng 7 triệu năm trước đã lan sang châu Phi. Sự thay đổi khí hậu hơn nữa dẫn đến sự tuyệt chủng của hươu cao cổ châu Á, trong khi hươu cao cổ châu Phi tiếp tục sống sót và phát triển thành nhiều loài mới. Hươu cao cổ hiện đại có thể đã xuất hiện khoảng 1 triệu năm trước ở miền đông châu Phi trong kỷ Pleistocen. Một số nhà sinh vật học cho rằng chúng là hậu duệ của G. jumae, trong khi người khác cho rằng G. gracilis là ứng cử viên tiềm năng hơn. G. jumae lớn hơn và được xây dựng nặng nề hơn, trong khi G. gracilis nhỏ hơn và nhẹ hơn. Sự thay đổi môi trường từ rừng rậm sang môi trường sống thoáng đãng, bắt đầu từ khoảng 8 triệu năm trước, có thể đã thúc đẩy sự tiến hóa của hươu cao cổ. Trong giai đoạn này, thực vật nhiệt đới biến mất và được thay thế bằng thực vật C4 khô cằn, dẫn đến sự hình thành của thảo nguyên khô hạn ở miền đông và bắc châu Phi cũng như miền tây Ấn Độ. Một số nghiên cứu cho rằng môi trường sống mới cùng với chế độ ăn khác, bao gồm cả các loài keo, có thể đã khiến tổ tiên hươu cao cổ tiếp xúc với các chất độc gây ra tỷ lệ đột biến cao và tỷ lệ tiến hóa nhanh hơn. Mẫu lông của hươu cao cổ hiện đại cũng có thể phản ánh những thay đổi này. Hươu cao cổ châu Á có thể đã có màu sắc giống đậu bắp hơn.
Bộ gen của hươu cao cổ dài khoảng 2,9 tỷ cặp NST, so với 3,3 tỷ cặp NST của okapi. Trong số các protein của gen hươu cao cổ và okapi, 19,4% là giống nhau. Cả hai loài đều có mối quan hệ xa với gia súc, cho thấy các đặc điểm độc đáo của hươu cao cổ không phải do tiến hóa nhanh chóng. Sự khác biệt giữa hươu cao cổ và okapi bắt đầu từ khoảng 11,5 triệu năm trước. Một nhóm nhỏ các gen ở hươu cao cổ dường như liên quan đến kích thước cơ thể và các đặc điểm thích nghi của hệ tuần hoàn.
Loài và phân loại
IUCN hiện chỉ công nhận một loài hươu cao cổ với chín phân loài. Vào năm 2001, có đề xuất phân loại hai loài khác. Một nghiên cứu di truyền năm 2007 đã chỉ ra rằng có sáu loài hươu cao cổ: Tây Phi, Rothschild, lưới, Masai, Angola và Nam Phi. Nghiên cứu này dựa trên sự khác biệt di truyền trong DNA hạt nhân và ty thể (mtDNA), cho thấy rằng các quần thể này bị cô lập về mặt sinh sản và hiếm khi lai tạo, dù không có trở ngại tự nhiên nào ngăn cản sự giao tiếp giữa chúng. Điều này cũng áp dụng cho các quần thể liền kề của hươu cao cổ Rothschild's, reticulated và Masai. Hươu cao cổ Masai có thể bao gồm hai loài khác nhau bởi Thung lũng Rift. Hươu cao cổ Reticulated và Masai có độ đa dạng mtDNA cao nhất, phù hợp với nguồn gốc ở miền đông châu Phi. Các quần thể phía bắc có mối quan hệ gần gũi hơn với quần thể trước, trong khi quần thể phía nam gắn bó hơn với quần thể sau. Hươu cao cổ dường như chọn bạn tình dựa trên loại lông, với các dấu ấn đặc trưng ở bê con. Nghiên cứu năm 2011 mô tả tám loài hươu cao cổ sống dựa trên phân tích hình thái chi tiết và khái niệm loài phát sinh. Nghiên cứu năm 2016 cũng xác nhận sự tồn tại của nhiều loài hươu cao cổ. Các nhà nghiên cứu cho rằng có bốn loài, chưa trao đổi di truyền trong 1-2 triệu năm. Một phản hồi cho ấn phẩm này đã chỉ ra bảy vấn đề trong việc giải thích dữ liệu, kết luận rằng các kết luận không nên được chấp nhận một cách vô điều kiện.
Nghiên cứu năm 2020 cho thấy rằng tùy thuộc vào phương pháp phân tích, có thể nhận diện từ hai đến sáu loài trong chi Giraffa. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các phương pháp phân tích nhiều loài có thể dẫn đến phân tách quá mức vì chúng tập trung vào cấu trúc địa lý thay vì các loài thực sự. Giả thuyết về ba loài, bao gồm G. camelopardalis, G. giraffa và G. tippelskirchi, được hỗ trợ mạnh mẽ bởi các phân tích phát sinh loài và được xác nhận bởi các phân tích tổng hợp quần thể và đa loài.
- Họ Giraffidae
- Chi Giraffa
- Loài †Giraffa gracilis
- Loài †Giraffa jumae
- Loài †Giraffa priscilla
- Loài †Giraffa punjabiensis
- Loài †Giraffa pygmaea
- Loài †Giraffa sivalensis
- Loài †Giraffa stillei
- Loài Giraffa camelopardalis: hươu cao cổ phương bắc
- Phân loài G. c. antiquorum: hươu cao cổ Kordofan
- Phân loài G. c. camelopardalis: hươu cao cổ Nubia
- Phân loài G. c. peralta: hươu cao cổ Tây Phi
- Phân loài G. c. rothschildi: hươu cao cổ Rothschild
- Loài Giraffa reticulata: hươu cao cổ Somalia
- Loài Giraffa giraffa: hươu cao cổ phương nam
- Phân loài G. g. angolensis: hươu cao cổ Angola
- Phân loài G. g. giraffa: hươu cao cổ Nam Phi
- Loài Giraffa tippelskirchi: hươu cao cổ Maasai
- Phân loài G. t. tippelskirchi: hươu cao cổ Maasai
- Phân loài G. t. thornicrofti: hươu cao cổ Rhodesia
- Chi Giraffa
Tập tính và môi trường sống
Tập tính sinh hoạt và chế độ ăn uống
Hươu cao cổ thường cư trú tại các thảo nguyên và rừng thưa. Chúng ưa thích các khu vực rừng Acacieae, Commiphora, Combretum và các khu rừng rộng mở Terminalia, hơn là các khu rừng dày đặc như rừng Brachystegia. Hươu cao cổ Angola thậm chí có thể sống trong môi trường sa mạc. Chúng chủ yếu ăn các cành cây thuộc phân họ Acacieae và các chi Commiphora và Terminalia, vì đây là nguồn cung cấp canxi và protein cần thiết cho sự phát triển của chúng. Bên cạnh đó, chúng cũng ăn cây bụi, cỏ và trái cây. Trung bình, một con hươu cao cổ tiêu thụ khoảng 34 kg lá mỗi ngày. Khi gặp căng thẳng, chúng có thể nhai vỏ cây. Mặc dù là động vật ăn cỏ, hươu cao cổ đôi khi thăm xác và liếm thịt khô từ xương. Trong mùa mưa, khi thức ăn phong phú, hươu cao cổ phân tán rộng rãi, còn trong mùa khô, chúng tụ tập quanh những khu vực có cây và bụi rậm xanh tươi. Các con cái thường chọn những khu vực ăn uống rộng rãi hơn, có thể vì dễ phát hiện kẻ săn mồi, mặc dù điều này có thể giảm hiệu quả việc ăn uống của chúng. Là động vật nhai lại, hươu cao cổ nhai thức ăn của mình, nuốt xuống để tiêu hóa và sau đó nôn ra để nhai lại, điều này giúp tiết nước bọt khi ăn. Chúng cần ít thức ăn hơn nhiều loài động vật ăn cỏ khác vì tán lá chúng ăn có chất dinh dưỡng cao và hệ tiêu hóa của chúng rất hiệu quả. Phân của chúng có dạng viên nhỏ và khi có nước, chúng uống ít nhất ba ngày một lần.
Hươu cao cổ ảnh hưởng lớn đến các cây mà chúng ăn, làm chậm quá trình phát triển của cây non trong nhiều năm và tạo ra các 'vòng eo' trên các cây quá cao. Chúng ăn nhiều nhất vào đầu và cuối ngày, còn trong khoảng thời gian giữa, chúng chủ yếu đứng và nhai lại. Hoạt động nhai lại chủ yếu diễn ra vào ban đêm, trong khi nằm là chủ yếu vào ban đêm.
Các liên kết ngoài
- Hươu cao cổ tại Từ điển bách khoa Việt Nam
- Giraffe tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- Reticulated giraffe tại Encyclopædia Britannica (tiếng Anh)
- even-toed ungulates tại trang Trung tâm Thông tin Công nghệ sinh học quốc gia Hoa Kỳ (NCBI).
- Giraffa Brünnich, 1771 (TSN 624948) tại Hệ thống Thông tin Phân loại Tích hợp (ITIS). Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010.
- Hươu cao cổ tại Encyclopedia of Life
- Fennessy, J. & Brown, D. (2010). “Giraffa camelopardalis”. Sách Đỏ IUCN các loài bị đe dọa. Phiên bản 2010. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế.Quản lý CS1: nhiều tên: danh sách tác giả (liên kết)
- ARKive – hình ảnh và phim về hươu cao cổ (Giraffa camelopardalis) Lưu trữ 2006-02-11 tại Wayback Machine.
- Animal Diversity Web – Giraffa camelopardalis
- Giraffe, African Wildlife Foundation
- Giraffa camelopardalis, Encyclopedia of Life