

Gò Công Tây
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Gò Công Tây | |||
Biểu trưng | |||
Một góc phố thị trấn Vĩnh Bình | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đồng bằng sông Cửu Long | ||
Tỉnh | Tiền Giang | ||
Huyện lỵ | Thị trấn Vĩnh Bình | ||
Trụ sở UBND | Đường Nguyễn Văn Côn, khu phố 4, thị trấn Vĩnh Bình | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 12 xã | ||
Thành lập | 1979 | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Huỳnh Thanh Bình | ||
Chủ tịch HĐND | Đinh Tấn Hoàng | ||
Bí thư Huyện ủy | Đinh Tấn Hoàng | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: | |||
|
|||
Diện tích | 184,48 km² | ||
Dân số (2020) | |||
Tổng cộng | 127.753 người | ||
Thành thị | 11.347 người (8,88%) | ||
Nông thôn | 116.406 người (91,12%) | ||
Mật độ | 692 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 823 | ||
Biển số xe | 63-B5 xxx.xx | ||
Số điện thoại | 0273. 3838374 | ||
Website | gocongtay | ||
Huyện Gò Công Tây thuộc tỉnh Tiền Giang, Việt Nam.
Vị trí
Huyện Gò Công Tây nằm ở khu vực phía đông tỉnh Tiền Giang, có đặc điểm địa lý như sau:
- Phía đông tiếp giáp thành phố Gò Công và huyện Gò Công Đông
- Phía tây giáp huyện Chợ Gạo
- Phía nam giáp huyện Tân Phú Đông
- Phía bắc giáp huyện Châu Thành thuộc tỉnh Long An.
Huyện Gò Công Tây có diện tích 184,48 km², với dân số khoảng 127.753 người vào năm 2020, mật độ dân số đạt 692 người/km².
Huyện lỵ là thị trấn Vĩnh Bình, nằm gần Quốc lộ 50, cách thành phố Mỹ Tho khoảng 30 km về phía đông và cách thành phố Gò Công khoảng 12 km về phía tây.
Cấu trúc địa hình và địa chất
Địa chất và địa hình của huyện chủ yếu được hình thành từ quá trình bồi lắng trầm tích biển và phù sa sông Cửu Long, với hai loại trầm tích chính là Holocene (phù sa mới) và Pleistocene (phù sa cổ) ở độ sâu 50 m.
Về địa hình, huyện Gò Công Tây nằm trong khu vực hạ lưu của tam giác châu thổ, có địa hình chủ yếu bằng phẳng và dốc từ Tây sang Đông, với nhiều giồng cát lớn hình cánh cung. Cao độ trung bình từ 0,6 - 1,0 m, chia thành các vùng như sau:
- Vùng ven sông Tiểu và rạch Tra có cao độ từ 0,8 đến 1,0 mét.
- Vùng giồng cổ bị phủ phù sa có cao độ từ 0,9 đến 1,1 mét.
- Vùng còn lại có cao độ từ 0,5 đến 0,9 mét, với xu hướng thấp dần từ Tây sang Đông, một số khu vực trũng có cao độ từ 0,2 đến 0,3 mét.
Về địa chất công trình, lớp đất mặt trên nền phù sa mới có độ sâu từ 1 đến 8 mét, không thích hợp cho xây dựng công trình lớn (góc ma sát trong khoảng 2–3°, lực dính từ 0,1 đến 0,2 kg/cm², hệ số nén lún từ 0,2 đến 0,3 cm²/kg). Các lớp đất từ 3 đến 30 mét, do có nhiều cát (tỉ lệ cát từ 19–64%), có đặc điểm địa chất công trình tốt hơn (góc ma sát từ 8 đến 16°, lực dính từ 0,3 đến 0,9 kg/cm², hệ số nén lún từ 0,02 đến 0,03 cm²/kg).
Khí hậu
Khí hậu của huyện Gò Công Tây có đặc điểm chung là nhiệt độ cao, chênh lệch nhiệt độ ngày đêm nhỏ, và chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 và mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4. Các chỉ số khí hậu cơ bản như sau:
- Nhiệt độ trung bình hàng năm là 27°C, với sự biến động giữa các tháng khoảng 3–5°C.
- Tổng số giờ nắng trong năm cao, khoảng 9.800–10.000°C.
- Lượng mưa hàng năm thấp so với các khu vực đồng bằng sông Cửu Long, dưới 1.350 mm, độ ẩm không khí trung bình từ 79–82% và thay đổi theo mùa, lượng bốc hơi trung bình từ 3,5–4,0 mm/ngày.
- Số giờ nắng cao từ 2.400 đến 2.600 giờ và thay đổi theo mùa.
- Trong mùa mưa, gió mùa Tây Nam mang theo độ ẩm cao với hướng gió chính là Tây Nam, tốc độ trung bình 2,4 m/s; vào mùa khô, gió mùa Đông Bắc.
Gió mùa Đông Bắc mang theo không khí khô, với hướng gió chính là Đông Bắc và Đông, tốc độ gió trung bình là 3,8 m/s, thường gây ra hiện tượng gió chướng đẩy mặn vào sâu trong đất liền.
Thủy văn
Hai con sông chính trên địa bàn là sông Cửa Tiểu và sông Tra bị ảnh hưởng bởi triều bán nhật không đều của biển Đông. Mực nước trung bình hàng năm cao nhất vào tháng 10–11 và thấp nhất vào tháng 6–7 (biên độ triều tại trạm Hòa Bình–Vĩnh Hựu vào mùa khô là 3,17 m).
Nguồn nước chính cho khu vực là từ sông Cửa Tiểu qua các cửa lấy nước chính: Xuân Hòa, Vàm Giồng và phía Nam bổ sung nước từ sông Tra qua các cống số 2, 3, 4 và cống Gò Công.
Huyện Gò Công Tây nằm trong vùng bị ảnh hưởng bởi nước lợ trong khoảng 5-6 tháng mỗi năm, với đỉnh điểm nhiễm mặn xảy ra vào tháng 3 và tháng 4. Sông Cửa Tiểu, vào đầu và cuối mùa khô, có sự thay đổi lớn về độ mặn theo triều. Chế độ mặn ở sông Tra còn khắc nghiệt hơn so với sông Cửa Tiểu. Hệ thống thủy lợi ngọt hóa Gò Công đã được xây dựng để ngăn mặn và cung cấp nước ngọt cho phần lớn đất nông nghiệp trong vùng.
Tài nguyên đất
Khu vực huyện Gò Công Tây bao gồm 3 loại đất chính:
- Nhóm đất phù sa: Với diện tích 14.182 ha, chiếm 77,2% diện tích tự nhiên, do phù sa sông Tiền Giang bồi đắp, rất thích hợp cho nông nghiệp nhờ nguồn nước ngọt dồi dào.
- Nhóm đất mặn: Diện tích 1.428,4 ha, chiếm 7,8% diện tích tự nhiên, chủ yếu nằm ở khu vực phía Bắc, nơi có đất phù sa nhiễm mặn rất ít.
- Nhóm đất cát giồng: Diện tích 2.762,5 ha, chiếm 15,0% diện tích tự nhiên, phân bố rải rác. Đất phù sa phủ trên nền giồng cát có cao trình cao, thoát nước tốt nhưng khó tưới, độ phì từ trung bình đến khá, phù hợp cho canh tác vườn và xây dựng, nhưng chi phí tưới cho trồng lúa khá cao.
Tài nguyên khoáng sản
Khu vực huyện Gò Công Tây không có các mỏ khoáng sản quan trọng; nguồn nước ngầm ngọt chủ yếu tập trung ở phía Tây của khu vực.
Tài nguyên sinh vật
Nhờ vào việc ngọt hóa và canh tác lâu dài, thảm thực vật tự nhiên đã được thay thế bằng các loại cây nông nghiệp. Một số loài thực vật đặc trưng cho rừng ngập mặn như bần và sú chỉ còn xuất hiện dọc theo các bờ sông. Tài nguyên thủy sinh ở sông Tra và sông Cửa Tiểu tương đối đa dạng, tuy nhiên, trong các kênh rạch nội đồng, thành phần loài thủy sinh vật có xu hướng thay đổi để phù hợp với môi trường nước do tác động của việc đóng cống ngăn mặn.
Lịch sử
Vùng đất này từng thuộc tỉnh Gò Công, và trong một khoảng thời gian, cũng là một phần của huyện Gò Công thuộc tỉnh Mỹ Tho.
Từ năm 1957 đến 1968, huyện Gò Công trực thuộc tỉnh Mỹ Tho dưới sự quản lý của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và sau đó là Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Vào tháng 8 năm 1968, huyện Gò Công được tách khỏi tỉnh Mỹ Tho để tái lập tỉnh Gò Công. Vùng đất Gò Công Tây hiện nay tương ứng với huyện Tây thuộc tỉnh Gò Công trong giai đoạn 1968-1976.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, huyện Tây thuộc tỉnh Gò Công vẫn được duy trì dưới sự quản lý của chính quyền quân quản Cộng hòa miền Nam Việt Nam cho đến đầu năm 1976.
Vào tháng 2 năm 1976, tỉnh Gò Công được sáp nhập với tỉnh Mỹ Tho và thành phố Mỹ Tho để tạo thành tỉnh Tiền Giang. Lúc này, huyện Tây được hợp nhất với huyện Đông thành huyện Gò Công thuộc tỉnh Tiền Giang.
Ngày 26 tháng 3 năm 1977, theo Quyết định số 77-CP của Hội đồng Chính phủ, thị xã Gò Công được chuyển thành thị trấn Gò Công, đồng thời là trung tâm hành chính của huyện Gò Công.
Ngày 13 tháng 4 năm 1979, theo Quyết định số 155-CP của Hội đồng Chính phủ, huyện Gò Công được chia thành hai huyện mới: Gò Công Đông và Gò Công Tây.
Huyện Gò Công Tây bao gồm thị trấn Vĩnh Bình và 15 xã, cụ thể là: Bình Nhì, Bình Phú, Bình Tân, Đồng Sơn, Đồng Thạnh, Long Bình, Long Vĩnh, Phú Thạnh, Tân Phú, Tân Thới, Thành Công, Thạnh Nhựt, Thạnh Trị, Vĩnh Hựu và Yên Luông.
Vào ngày 16 tháng 2 năm 1987, Hội đồng trưởng đã ban hành Quyết định số 37-HĐBT, điều chỉnh một phần diện tích và dân số từ hai xã Thành Công và Yên Luông để tái lập thị xã Gò Công.
Ngày 14 tháng 1 năm 2002, xã Tân Thạnh được thành lập từ việc tách 1.134,32 ha và 2.836 người từ xã Tân Phú; 550,2 ha và 1.769 người từ xã Tân Thới; và 552,51 ha và 358 người từ xã Phú Thạnh.
Cuối năm 2007, huyện Gò Công Tây có 17 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm thị trấn Vĩnh Bình và 16 xã: Bình Nhì, Bình Phú, Bình Tân, Đồng Sơn, Đồng Thạnh, Long Bình, Long Vĩnh, Phú Thạnh, Tân Phú, Tân Thạnh, Tân Thới, Thành Công, Thạnh Nhựt, Thạnh Trị, Vĩnh Hựu và Yên Luông.
Ngày 21 tháng 1 năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị định 09/2008/NĐ-CP, theo đó:
- Chuyển một phần diện tích và dân số từ xã Thành Công sang xã Bình Xuân, thuộc thị xã Gò Công.
- Thành lập huyện Tân Phú Đông bằng cách tách 4 xã: Tân Thới, Tân Phú, Phú Thạnh, Tân Thạnh.
Sau khi điều chỉnh, huyện Gò Công Tây còn lại 18.447,61 ha diện tích tự nhiên và 131.252 người, với 13 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 1 thị trấn và 12 xã.
Hành chính
Huyện Gò Công Tây hiện có 13 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn Vĩnh Bình (huyện lỵ) và 12 xã: Bình Nhì, Bình Phú, Bình Tân, Đồng Sơn, Đồng Thạnh, Long Bình, Long Vĩnh, Thành Công, Thạnh Nhựt, Thạnh Trị, Vĩnh Hựu, và Yên Luông.
Kinh tế
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất của huyện trong giai đoạn 2016 - 2020 đạt trung bình 3,7% mỗi năm. Cụ thể: khu vực nông, lâm, ngư nghiệp tăng 1,9%/năm; khu vực công nghiệp – xây dựng tăng 8,3%/năm; khu vực thương mại - dịch vụ - du lịch tăng 5,8%/năm.
Giá trị sản xuất bình quân đầu người năm 2020 đạt 64,4 triệu đồng, so với mức 150,8 triệu đồng của toàn tỉnh.
Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trong giai đoạn 2016-2019 là 3.483 tỷ đồng; năm 2020 là 2.364 tỷ đồng, tổng cộng cả giai đoạn 2016-2020 là 5.847 tỷ đồng.
Cơ cấu kinh tế theo giá trị sản xuất hiện hành: Khu vực 1 chiếm 62,22%; khu vực 2 chiếm 16,54%; khu vực 3 chiếm 21,24%.
Tốc độ tăng dân số trung bình đến năm 2020 chỉ còn 0,70%.
Tất cả các trạm y tế xã, thị trấn đều đạt tiêu chuẩn quốc gia về Y tế xã. Đến năm 2020, tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 92%, với 3,5 bác sĩ/10.000 dân và 7 giường bệnh/10.000 dân.
Hàng năm, địa phương tạo mới việc làm cho 615 lao động, trong đó tỷ lệ lao động được đào tạo đạt 35%.
Tỷ lệ hộ nghèo hiện còn 1,7%.
Tất cả các hộ nông thôn đều sử dụng điện.
100% hộ dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh. Chất thải rắn được xử lý đúng quy định đạt 90%; rác thải y tế được thu gom và xử lý đạt 98%; nước thải y tế được thu gom và xử lý đạt 76%.
Tỷ lệ trẻ từ 24-36 tháng tuổi được gửi vào nhà trẻ đạt 10%; bậc mẫu giáo đạt 85%, trong đó trẻ 5 tuổi đạt 100%; tiểu học đạt 100%; trung học cơ sở đạt 98%; trung học phổ thông đạt hơn 60%.
Huyện nằm giữa hệ thống sông rạch lớn, với sông Cửa Tiểu ở phía nam và sông Trà ở phía bắc. Đây là hai tuyến giao thông chính nối Sài Gòn và các khu vực ven Biển Đông với các tỉnh miền Tây Nam Bộ và Campuchia. Địa hình chủ yếu bằng phẳng và do ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều mạnh, đất đai nơi đây thường bị nhiễm phèn và mặn nặng.
Ngành công nghiệp xây dựng phát triển chậm, trong khi thương mại dịch vụ còn nhỏ lẻ. Các lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp là trụ cột kinh tế của huyện. Cây trồng chủ yếu là lúa nước với sản lượng lương thực hàng năm trên 170.000 tấn. Nông dân cũng trồng nhiều loại cây màu như dưa hấu, bắp, rau đậu,... bên cạnh 2-3 vụ lúa mỗi năm.
Kinh tế vườn phát triển tốt với nhiều loại cây trái như xoài, bưởi, mãng cầu xiêm. Chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng tăng trưởng nhanh về số lượng và chất lượng. Khai thác thủy hải sản hiện đang trở thành một ngành kinh tế chủ lực của huyện.
Dù nằm trong tỉnh nổi tiếng về cây trái, Gò Công Tây lại có diện tích trồng hoa màu và rau củ lớn hơn diện tích trồng hoa quả. Các sản phẩm hoa màu và rau củ chủ yếu được cung cấp cho tỉnh Tiền Giang và một phần cho Thành phố Hồ Chí Minh.
Giáo dục và đào tạo
Các cơ sở giáo dục được quản lý bởi Phòng Giáo dục bao gồm:
- Giáo dục mầm non: 17 trường (15 trường công lập và 2 trường tư thục).
- Giáo dục phổ thông: 16 trường tiểu học và 6 trường trung học cơ sở.
- Trường đạt chuẩn Quốc gia: Trong tổng số 37 trường, có 29 trường đạt chuẩn Quốc gia, tỷ lệ 78,37%. Trong đó, giáo dục mầm non có 11/15 trường đạt chuẩn, tỷ lệ 73,33%; tiểu học đạt chuẩn 16/16 trường, tỷ lệ 100%; trung học cơ sở đạt chuẩn 2/6 trường, tỷ lệ 33,33%.
Các cơ sở giáo dục do Sở Giáo dục và Đào tạo quản lý bao gồm:
- Trường Trung học phổ thông có 4 trường:
- Trường THPT Vĩnh Bình: Ấp Thạnh Hưng, xã Đồng Thạnh
- Trường THPT Nguyễn Văn Thìn: Khu phố 5, thị trấn Vĩnh Bình
- Trường THCS và THPT Phú Thành: Ấp Bình Lạc, xã Thành Công
- Trường THCS và THPT Long Bình: Ấp Thới Hòa, xã Long Bình.
Dân số
Theo số liệu dân số trung bình từ năm 2010 đến 2020 (theo niên giám thống kê năm 2020 của huyện Gò Công Tây), biến động dân số trong huyện khá ổn định, trung bình khoảng 450 đến 500 người mỗi năm. Cụ thể như sau:
- Dân số toàn huyện năm 2010: 125.452 người; năm 2017: 129.124 người; năm 2018: 127.763 người; năm 2019: 127.260 người; năm 2020: 127.753 người.
- Biến động dân số giai đoạn 2010-2017: giảm 3.672 người; giai đoạn 2017-2020: tăng 1.371 người.
Dân cư phân bố không đồng đều giữa các xã và thị trấn. Với đặc thù là huyện nông thôn, dân cư thành thị chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, khoảng 8,88%, trong khi dân cư nông thôn chiếm tới 91,12%. Tốc độ đô thị hóa còn chậm, phát triển công nghiệp và dịch vụ chưa đạt mức cao.
Mật độ dân số cao nhất tập trung ở vùng đô thị (thị trấn Vĩnh Bình) với 1.493 người/km², trong khi các xã còn lại có mật độ dân cư trung bình từ 400 đến 1.000 người/km², phân bố tương đối đồng đều với sự chênh lệch không lớn (591 đến 793 người/km²).
Hình ảnh


Ghi chú
Đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Tiền Giang |
---|
Xã, thị trấn thuộc huyện Gò Công Tây |
---|