Trà Cú
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Trà Cú | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đồng bằng sông Cửu Long | ||
Tỉnh | Trà Vinh | ||
Huyện lỵ | Thị trấn Trà Cú | ||
Trụ sở UBND | Khóm 5, thị trấn Trà Cú | ||
Phân chia hành chính | 2 thị trấn, 15 xã | ||
Thành lập | 7/3/1950 | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: | |||
| |||
Diện tích | 312,43 km² | ||
Dân số (2019) | |||
Tổng cộng | 146.329 người | ||
Thành thị | 11.294 người (8%) | ||
Nông thôn | 135.035 người (92%) | ||
Mật độ | 468 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh, Hoa, Khmer | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 849 | ||
Biển số xe | 84-G1 | ||
Số điện thoại | 0294.3.874.070 | ||
Số fax | 0294.3.874.512 | ||
Website | tracu | ||
Huyện Trà Cú thuộc tỉnh Trà Vinh, Việt Nam.
Vị trí địa lý
Huyện Trà Cú nằm cách trung tâm thành phố Trà Vinh khoảng 33 km theo tuyến quốc lộ 53 và 54, là tuyến giao thông chính cho hàng hóa quốc tế qua cửa biển Định An, với vị trí địa lý đặc biệt:
- Phía đông tiếp giáp huyện Cầu Ngang và huyện Duyên Hải
- Phía tây tiếp giáp huyện Cù Lao Dung, tỉnh Sóc Trăng qua sông Hậu
- Phía nam tiếp giáp huyện Duyên Hải
- Phía bắc tiếp giáp huyện Châu Thành và huyện Tiểu Cần.
Huyện Trà Cú có tổng diện tích là 312,43 km². Theo số liệu năm 2019, dân số của huyện là 146.329 người, với mật độ dân số đạt 468 người/km².
Huyện Trà Cú có đông đồng bào Khmer nhất trong tỉnh, chiếm 60% tổng dân số, chủ yếu cư trú ở các xã vùng sâu và xa.
Đặc điểm tự nhiên
Trà Cú có đặc điểm địa hình điển hình của vùng đồng bằng ven biển, với nhiều đụn cát hình cánh cung song song với bờ biển, có độ cao hơn 2m. Cao trình trung bình từ 0,4m đến 0,8m so với mực nước biển, và cao trình cao phân bố rải rác tại các xã Đại An, Đôn Châu, Ngãi Xuyên, Ngọc Biên.
Khu vực này có khí hậu nhiệt đới gió mùa ven biển với hai mùa mưa nắng rõ rệt, tạo điều kiện lý tưởng cho nông nghiệp. Nhiệt độ trung bình dao động từ 24,9 đến 28,5°C và tổng lượng mưa hàng năm khoảng 1.900 mm.
Sông Hậu chảy qua huyện là một trong hai nhánh chính của đoạn cuối sông, được phân cách bởi Cù Lao Dung. Nhánh sông này có bề rộng từ 1,5 đến 2,5 km và độ sâu trên 10m. Các sông rạch chính bao gồm: Rạch Trà Cú – Vàm Buôn dài khoảng 18 km, bắt nguồn từ sông Hậu và nối thông với Rạch Trà Mềm qua cống Tập Sơn; Rạch Tổng Long dài khoảng 17 km, bắt nguồn từ sông Hậu và thông với kênh 3/2. Ngoài ra còn nhiều kênh rạch khác như Kênh 3/2, Kênh An Quảng Hữu, Kênh Nguyễn Văn Pho, Rạch Vàm Ray, Rạch Bắc Trang, và Rạch Trà Mềm.
Chế độ thủy triều ở đây bị ảnh hưởng bởi chế độ bán nhật triều của Biển Đông, với nước lên xuống hai lần trong ngày. Mỗi tháng có hai lần triều cường vào ngày mồng 01 và ngày 15 âm lịch, kéo dài từ 2 đến 3 ngày. Biên độ triều hàng ngày rất lớn, đặc biệt ở khu vực gần cửa sông. Vào mùa khô, khu vực phía Tây Quốc lộ 53 bị xâm nhập mặn từ sông Hậu như Rạch Trà Cú, Tổng Long, và Vàm Ray.
Với địa hình dọc theo sông Hậu dài hơn 20 km và gần cửa biển Định An, khu vực này rất thuận lợi cho việc phát triển nghề đánh bắt thủy sản và giao thông đường thủy.
Diện tích đất nông nghiệp là 31.261,7 ha, chiếm 84,51% diện tích tự nhiên, bao gồm: đất trồng cây hàng năm 23.986,81 ha (76,73% diện tích đất nông nghiệp, chủ yếu là đất trồng lúa); đất trồng cây lâu năm 4.919,77 ha (15,74% diện tích đất nông nghiệp); và đất nuôi trồng thủy sản 2.355,12 ha (7,53% diện tích đất nông nghiệp). Đất phi nông nghiệp là 5.708,85 ha; đất chưa sử dụng là 21,9 ha; và sông rạch là 3.043,24 ha.
Tài nguyên khoáng sản ở huyện được khảo sát cho thấy có mỏ đất sét tại xã Phước Hưng với trữ lượng khá lớn. Mặc dù dân cư đã khai thác để sản xuất gạch, nhưng gạch thường bị vênh và nặng. Sét có thành phần hóa học tương đối đạt yêu cầu, nhưng lượng cát thấp và chứa nhiều Hydro-mica, dẫn đến hiện tượng gạch dễ bị vênh khi nung.
Huyện Trà Cú sở hữu nguồn tài nguyên nước mặt và nước ngầm phong phú. Nguồn nước mặt chủ yếu từ sông Hậu, Rạch Trà Cú – Vàm Buôn, và Rạch Tổng Long, phục vụ hiệu quả cho hoạt động nông nghiệp và sinh hoạt của cư dân.
Dân số (năm 2013)
Trà Cú là huyện ven biển thuộc tỉnh Trà Vinh, với cộng đồng đồng bào Khmer đông nhất tỉnh, khoảng 111.607 người, chiếm 60% tổng dân số của huyện.
Huyện có tổng dân số khoảng 180.084 người, mật độ dân số đạt 487 người/km² và có 44.852 hộ. Phần lớn cư dân sinh sống ở nông thôn với khoảng 168.283 người, chiếm gần 93% tổng dân số của huyện.
Quản lý hành chính
Huyện Trà Cú được chia thành 17 đơn vị hành chính cấp xã, trong đó có 2 thị trấn là Trà Cú (trung tâm huyện) và Định An, cùng với 15 xã: An Quảng Hữu, Đại An, Định An, Hàm Giang, Hàm Tân, Kim Sơn, Long Hiệp, Lưu Nghiệp Anh, Ngãi Xuyên, Ngọc Biên, Phước Hưng, Tân Hiệp, Tân Sơn, Tập Sơn, và Thanh Sơn.
Di tích lịch sử
Trà Cú đã trở thành quận thuộc tỉnh Trà Vinh từ ngày 07 tháng 3 năm 1950, được thành lập bằng cách đổi tên từ quận Bắc Trang. Quận Trà Cú lúc đó bao gồm 3 tổng: Ngãi Hòa Thượng với 4 làng, Ngãi Hòa Trung với 5 làng, và Thành Hóa Thượng với 4 làng, với quận lỵ đặt tại làng Ngãi Xuyên.
Vào ngày 21 tháng 7 năm 1956, xã Long Vĩnh thuộc tổng Thành Hóa Thượng đã được tách ra và nhập vào quận Long Toàn thuộc tỉnh cùng tên.
Vào ngày 31 tháng 1 năm 1957, quận Trà Cú thuộc tỉnh Vĩnh Bình, vẫn bao gồm 3 tổng như trước đây với 9 xã. Quận lỵ được đặt tại xã Ngãi Xuyên. Sau năm 1965, các tổng trong quận tự động bị giải thể.
Kể từ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trà Cú trở thành huyện thuộc tỉnh Cửu Long, với 9 xã: An Quảng Hữu, Đại An, Đôn Châu, Hàm Giang, Long Hiệp, Lưu Nghiệp Anh, Ngãi Xuyên, Phước Hưng và Tập Sơn.
Từ năm 1976 đến nay
Tháng 2 năm 1976, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam ban hành Nghị định về việc giải thể các khu và hợp nhất các tỉnh ở miền Nam, trong đó tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Vĩnh Bình được sáp nhập thành tỉnh Cửu Long.
Ngày 11 tháng 3 năm 1977, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 59-CP, quy định việc giải thể huyện Tiểu Cần và sáp nhập 3 xã: Tập Ngãi, Hùng Hòa, và Tân Hòa từ huyện Tiểu Cần vào huyện Trà Cú.
Vào ngày 15 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Quyết định 69-HĐBT với các nội dung sau:
- Chia xã Đôn Châu thành hai xã: Đôn Châu và Đôn Xuân
- Chia xã Long Hiệp thành ba xã: Long Hiệp, Tân Hiệp và Ngọc Biên
- Chia xã Ngãi Xuyên thành hai xã: Ngãi Xuyên và Thạnh Sơn
- Chia xã Tập Ngãi thành hai xã: Tập Ngãi và Ngãi Hùng.
Ngày 29 tháng 9 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 98-HĐBT để thành lập huyện Tiểu Cần bằng cách tách 4 xã: Tập Ngãi, Hùng Hòa, Tân Hòa và Ngãi Hùng từ huyện Trà Cú.
Hiện nay, huyện Trà Cú bao gồm 13 xã: An Quảng Hữu, Lưu Nghiệp Anh, Đại An, Đôn Châu, Đôn Xuân, Long Hiệp, Tân Hiệp, Ngãi Xuyên (trụ sở huyện lỵ), Ngọc Biên, Thanh Sơn, Tập Sơn, Phước Hưng và Hàm Giang.
Vào ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Cửu Long được chia thành hai tỉnh: Vĩnh Long và Trà Vinh, và huyện Trà Cú thuộc tỉnh Trà Vinh.
Vào ngày 29 tháng 8 năm 1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định 99-CP, quyết định thành lập thị trấn Trà Cú bằng cách tách một phần diện tích và dân số từ xã Thanh Sơn và xã Ngãi Xuyên.
Ngày 2 tháng 3 năm 1998, Chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 13/1998/NĐ-CP, quy định việc thành lập xã Định An từ 1.696,51 ha diện tích và 6.848 người từ xã Đại An.
Ngày 10 tháng 12 năm 2003, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 157/2003/NĐ-CP để thực hiện các quyết định sau:
- Thành lập xã Kim Sơn từ 2.228,72 ha diện tích và 7.874 người của xã Thanh Sơn
- Thành lập xã Tân Sơn từ 1.521,145 ha diện tích và 6.435 người của xã Tập Sơn.
Ngày 1 tháng 8 năm 2008, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 86/2008/NĐ-CP với các nội dung:
- Thành lập xã Hàm Tân từ việc điều chỉnh 2.098 ha diện tích và 7.759 người từ xã Hàm Giang
- Thành lập thị trấn Định An từ việc điều chỉnh 403,86 ha diện tích và 5.444 người từ xã Định An.
Sau các điều chỉnh, huyện Trà Cú hiện có 19 đơn vị hành chính, bao gồm 17 xã: An Quảng Hữu, Lưu Nghiệp Anh, Đại An, Đôn Châu, Đôn Xuân, Long Hiệp, Tân Hiệp, Ngãi Xuyên, Ngọc Biên, Thanh Sơn, Kim Sơn, Tập Sơn, Tân Sơn, Phước Hưng, Định An, Hàm Giang, Hàm Tân và 2 thị trấn: Trà Cú, Định An.
Vào ngày 15 tháng 5 năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 934/NQ-UBTVQH13, quyết định chuyển toàn bộ 2 xã: Đôn Châu và Đôn Xuân sang huyện Duyên Hải quản lý.
Vì vậy, huyện Trà Cú hiện có 17 đơn vị hành chính, bao gồm 2 thị trấn và 15 xã theo cấu trúc hiện tại.
Kinh tế
Người dân chủ yếu tham gia vào các hoạt động như trồng lúa, mía, đánh cá và chăn nuôi.
Giao thông
- Quốc lộ 53
- Quốc lộ 54
- Đường tỉnh 914
- Hương lộ 12, 25, 27, 28, 36.
Văn hóa - du lịch
Các di tích và thắng cảnh nổi bật
- Chùa Nodol, còn gọi là Chùa Giồng Lớn hoặc Chùa Cò, là một trong 44 chùa Phật giáo Nam Tông Khmer ở huyện, có lịch sử hơn 300 năm. Chùa nằm trong khuôn viên rộng lớn với nhiều loài cò và chim hoang dã, tọa lạc tại ấp Cây Da, xã Đại An.
- Chùa Vàm Ray, chùa Phật giáo Nam Tông lớn nhất nước, nổi bật với kiến trúc cổ và tượng Phật nhập niết bàn dài 54 m trong không gian thanh tịnh.
- Chùa Ông Bảo của cộng đồng người Hoa.
- Hệ thống 44 chùa Phật giáo Nam Tông Khmer với kiến trúc truyền thống và đặc sắc của người Khmer.
- Cửa Định An, một trong 9 cửa của hệ thống sông Mekong, nơi giao thoa giữa Sông Hậu và Biển Đông.
- Nhà cổ tại ấp Giồng Lớn A, xã Đại An, xây dựng năm 2014 trên diện tích 1ha với kiến trúc cổ kính và không gian thoáng mát.
- Làng nghề chiếu tại ấp Cà Hom, xã Hàm Giang.
Chú thích
Đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Trà Vinh |
---|
Xã, thị trấn thuộc huyện Trà Cú |
---|