

Trà Ôn
|
|||
---|---|---|---|
Huyện | |||
Huyện Trà Ôn | |||
Chợ nổi Trà Ôn trên sông Hậu | |||
Hành chính | |||
Quốc gia | Việt Nam | ||
Vùng | Đồng bằng sông Cửu Long | ||
Tỉnh | Vĩnh Long | ||
Huyện lỵ | Thị trấn Trà Ôn | ||
Trụ sở UBND | Khu 4, thị trấn Trà Ôn | ||
Phân chia hành chính | 1 thị trấn, 13 xã | ||
Thành lập | 29/9/1981 | ||
Tổ chức lãnh đạo | |||
Chủ tịch UBND | Trương Kế Truyền | ||
Chủ tịch HĐND | Nguyễn Thanh Triều | ||
Địa lý | |||
Tọa độ: | |||
| |||
Diện tích | 267,14 km² | ||
Dân số (2018) | |||
Tổng cộng | 137.117 người | ||
Mật độ | 513 người/km² | ||
Dân tộc | Kinh, Hoa, Khmer | ||
Khác | |||
Mã hành chính | 862 | ||
Biển số xe | 64-F1 | ||
Website | traon | ||
Huyện Trà Ôn thuộc tỉnh Vĩnh Long, Việt Nam.
Vị trí địa lý
Trà Ôn nằm ở phía nam tỉnh Vĩnh Long với các đặc điểm địa lý sau:
- Phía đông tiếp giáp huyện Vũng Liêm
- Phía tây giáp huyện Châu Thành, tỉnh Hậu Giang và quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ
- Phía nam tiếp giáp huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng và huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh
- Phía bắc giáp thị xã Bình Minh và huyện Tam Bình.
Huyện nằm về hướng đông, cách thành phố Vĩnh Long khoảng 40 km, nằm dọc theo sông Hậu, cách Cần Thơ 17 km, mở rộng dọc theo sông Măng Thít, đồng thời cũng nằm trên tuyến giao thông thủy quốc gia quan trọng kết nối đồng bằng với Thành phố Hồ Chí Minh và miền Đông Nam Bộ.
Đặc điểm địa hình
Trà Ôn có địa hình chủ yếu bằng phẳng, cao dần từ sông Hậu và sông Trà Ôn - Mang Thít về phía đông bắc, với độ cao thay đổi từ 1,25 - 0,5 m. Các khu vực có độ cao từ 1 - 1,25 m bao gồm các xã ven sông Hậu và sông Trà Ôn - Mang Thít như Tích Thiện, Thiện Mỹ, thị trấn Trà Ôn và Tân Mỹ. Các khu vực có độ cao từ 0,75 - 1 m bao gồm các xã Vĩnh Xuân, Thuận Thới, Hựu Thành, Trà Côn. Các khu vực có độ cao từ 0,5 - 0,75 m bao gồm các xã Hòa Bình, Xuân Hiệp, Nhơn Bình, Thới Hòa.
Tổng diện tích đất nông nghiệp của huyện là 25.839,12 ha, chiếm 17,52% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh, được phân chia như sau:
- Diện tích đất nông nghiệp là 21.657,06 ha, chiếm 83,82% tổng diện tích đất sản xuất của huyện; trong đó, cây hàng năm chiếm 70% với chủ yếu là lúa, phần còn lại là cây lâu năm, cây ăn quả và cây công nghiệp ngắn và dài ngày chiếm 30%, không có đất lâm nghiệp.
- Đất chuyên dụng là 812,83 ha, chiếm 3,15%.
- Đất ở là 730,01 ha, chiếm 2,82% và đất chưa khai thác là 2.639,22 ha, chiếm 10,21% tổng diện tích đất tự nhiên.
Về đặc điểm cơ lý, đất đai của huyện được phân thành 3 loại chính: đất phèn, đất phù sa và đất cát giồng:
- Nhóm đất phèn có diện tích 8.512 ha, chiếm 32,9% tổng diện tích đất sản xuất, chủ yếu tập trung ở các vùng trũng như Hòa Bình, Xuân Hiệp, Nhơn Bình, Thới Hòa và một phần của Thuận Thới, Hựu Thành. Dù là đất phèn, nhưng tầng phèn khá sâu (đất phèn nông chỉ chiếm 34%), được cải tạo tốt và canh tác hiệu quả, cho phép trồng 2-3 vụ lúa hàng năm với năng suất cao.
- Nhóm đất phù sa: 17.140 ha, chiếm 66,3% diện tích đất sản xuất, phân bố chủ yếu ở các xã ven sông Hậu và sông Mang Thít. Đây là vùng đất màu mỡ, với đất cao thuận lợi cho trồng cây ăn quả, còn đất thấp thích hợp cho trồng lúa và luân canh lúa màu.
- Nhóm đất cát giồng: 185 ha, chiếm 0,7% diện tích đất sản xuất, phân bố chủ yếu ở 3 giồng cát: giồng Thanh Bạch (xã Thiện Mỹ), giồng La Ghì (xã Vĩnh Xuân) và giồng Gòn (xã Thuận Thới), chủ yếu là đất thổ cư, dùng để trồng cây lâu năm và rau màu.
Khí hậu và Thủy văn
Trà Ôn nằm giữa vĩ độ Bắc từ 9°52'40' đến 10°05'30' và kinh độ Đông từ 105°50'30' đến 106°06'00'. Giống như các khu vực khác ở Nam Bộ, huyện có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với nhiệt độ trung bình từ 26 - 27 °C (tháng 4 nóng nhất: 36 °C, tháng giêng lạnh nhất: 29 °C), bình quân hàng năm có 2.600 giờ nắng, độ ẩm trung bình 80 - 83% (độ ẩm tối đa khoảng 92% và tối thiểu khoảng 62%). Huyện có 2 mùa rõ rệt trong năm:
- Mùa khô tại đây kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, với thời tiết nắng nóng cực điểm, dễ dẫn đến hạn hán và tác động tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp.
- Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, trung bình có khoảng 115 ngày mưa và tổng lượng mưa dao động từ 1.400 đến 1.500 mm mỗi năm. Lũ lụt thường xảy ra trong khoảng thời gian này.
Trà Ôn được biết đến với hệ thống sông ngòi dày đặc, hoạt động theo chu kỳ bán nhật triều, cung cấp nguồn nước ngọt quanh năm với chất lượng tốt (ngoại trừ một số xã như Tích Thiện, Vĩnh Xuân, Hựu Thành có thể bị ảnh hưởng nhẹ bởi nước mặn vào mùa khô). Kết hợp với thời tiết thuận lợi, đây là những yếu tố lý tưởng để khai thác cho sản xuất và đời sống dân cư.
Hành chính
Huyện Trà Ôn có 14 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm thị trấn Trà Ôn (huyện lỵ) và 13 xã: Hoà Bình, Hựu Thành, Lục Sĩ Thành, Nhơn Bình, Phú Thành, Tân Mỹ, Thiện Mỹ, Thới Hoà, Thuận Thới, Tích Thiện, Trà Côn, Vĩnh Xuân, Xuân Hiệp.
Lịch sử
Trà Ôn đã là một quận thuộc tỉnh Cần Thơ từ năm 1921, với hai tổng là An Trường gồm 8 làng và Bình Lễ gồm 7 làng.
Vào ngày 17 tháng 6 năm 1954, quận được bổ sung thêm các làng Tích Thiện, Vĩnh Xuân, Trà Côn từ quận Cầu Kè cùng tỉnh.
Năm 1956, chính quyền Sài Gòn thành lập tỉnh Tam Cần, chọn thị trấn Trà Ôn làm tỉnh lỵ. Tuy nhiên, đến năm 1957, tỉnh Tam Cần bị giải thể, và Trà Ôn được sáp nhập vào tỉnh Vĩnh Bình, sau đó về tỉnh Vĩnh Long.
Sau năm 1956, quận Trà Ôn thuộc tỉnh Vĩnh Bình với các làng chuyển thành xã, bao gồm 3 tổng: Bình Lễ với 3 xã, Thành Trị với 5 xã, Bình Thới với 3 xã; quận lỵ đặt tại xã Tân Mỹ. Đến năm 1965, các tổng bị giải thể.
Vào ngày 14 tháng 1 năm 1967, quận Trà Ôn trở thành một phần của tỉnh Vĩnh Long.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, Trà Ôn được chuyển thành huyện thuộc tỉnh Cửu Long.
Kể từ năm 1975 đến nay
Vào ngày 11 tháng 3 năm 1977, huyện Trà Ôn bị giải thể, và khu vực này được nhập vào các huyện Cầu Kè và Vũng Liêm thuộc tỉnh Cửu Long.

Ngày 29 tháng 9 năm 1981, huyện Trà Ôn được tái lập, bao gồm thị trấn Trà Ôn và 11 xã: Hoà Bình, Hựu Thành, Lục Sĩ Thành, Thuận Thới, Tích Thiện, Vĩnh Xuân, Tân Mỹ, Thiện Mỹ, Thới Hoà, Trà Côn, Xuân Hiệp, tách từ huyện Cầu Kè và huyện Vũng Liêm.
Ngày 26 tháng 12 năm 1991, tỉnh Cửu Long được chia thành hai tỉnh mới là Vĩnh Long và Trà Vinh, trong đó huyện Trà Ôn thuộc tỉnh Vĩnh Long.
Vào ngày 9 tháng 8 năm 1994, huyện Trà Ôn đã thành lập thêm hai xã mới là Nhơn Bình và Phú Thành.
Hiện tại, huyện Trà Ôn bao gồm 1 thị trấn và 13 xã.
Kinh tế - xã hội
Trà Ôn có điều kiện tự nhiên lý tưởng để phát triển nông nghiệp với tài nguyên phong phú và đất đai màu mỡ. Hai xã cù lao Phú Thành và Lục Sĩ Thành rất thuận lợi cho việc trồng cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là ngành nuôi cá tra xuất khẩu đang phát triển mạnh mẽ. Chợ nổi Trà Ôn trên sông Hậu là điểm trung chuyển và giao dịch hàng hóa nông sản. Hệ thống giao thông đa dạng cả đường bộ và đường thủy hỗ trợ sự phát triển kinh tế, xã hội và du lịch sinh thái.
Những nông sản nổi bật bao gồm lúa, cam, bưởi, chôm chôm... Ngành nghề chủ yếu là nông nghiệp, chế biến gỗ, nuôi trồng thủy sản và đánh bắt cá...
Đời sống xã hội

Trà Ôn, một huyện thuộc tỉnh Vĩnh Long, là một trong những khu vực còn nghèo nàn với đời sống người dân thấp và hạ tầng còn thiếu thốn. Vào năm 2005, huyện có 2 xã tham gia chương trình 135 của Chính phủ.
Vào năm 2005, huyện Trà Ôn có khoảng 70% hộ Khmer sống trong điều kiện nghèo, với diện tích đất ở và sản xuất dưới 2.500 km², và 28% hộ không có đất sản xuất, phải làm thuê để sống qua ngày. Tuy nhiên, nhờ các chính sách đổi mới trong phát triển kinh tế và chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, tình hình đã có sự cải thiện đáng kể, đời sống người dân được nâng cao. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh chóng từ hơn 16% năm 2006 xuống còn hơn 13% năm 2009, với gần 3.000 hộ thoát nghèo.
Vào năm 2010, Trà Ôn đặt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 2,46% xuống còn 11%. Bên cạnh các chính sách xã hội, huyện còn được sự quan tâm đầu tư từ Trung ương và tỉnh về cơ sở hạ tầng. Ngày 31 tháng 12 năm 2009, cầu Trà Ôn đã được khánh thành và thông xe kỹ thuật. Cầu này bắc qua sông Mang Thít, nằm trên quốc lộ 54, kết nối hai huyện Trà Ôn và Tam Bình.
Thị trấn Trà Ôn tọa lạc bên bờ Bắc sông Hậu và dọc theo bờ Nam của tuyến đường quốc gia nối từ tỉnh Cà Mau đến Thành phố Hồ Chí Minh. Tính đến tháng 4 năm 2010, thị trấn có 5 trường học, trong đó 3 trường đạt chuẩn quốc gia, 1 trạm y tế được xây dựng cơ bản. Toàn thị trấn có 2.750 ngôi nhà kiên cố và bán kiên cố, tỷ lệ nhà tạm bợ rất thấp; 100% hộ dân đều có điện, hệ thống điện thoại bao phủ toàn thị trấn, thông tin liên lạc phong phú, và hầu hết các hộ gia đình đều có thiết bị nghe nhìn đa dạng.
Trà Ôn còn nổi tiếng là quê hương của danh ca vọng cổ nổi tiếng Út Trà Ôn. Nghệ danh của ông là sự kết hợp giữa tên 'Út' (tên thật là Nguyễn Thành Út) và tên của huyện 'Trà Ôn'.
Giao thông vận tải
Quốc lộ 54 đóng vai trò là tuyến đường giao thông chủ yếu của huyện.
Ghi chú
Liên kết bên ngoài
Đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc tỉnh Vĩnh Long |
---|
Xã, thị trấn thuộc huyện Trà Ôn |
---|