1. Hai Bà Trưng - Nữ vương hùng mạnh nhất lịch sử
Danh hiệu này thuộc về hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị, những nhà lãnh đạo xuất sắc nhất khi đất nước giành lại độc lập, đầu thế kỷ thứ nhất sau Công Nguyên. Hai Bà Trưng được coi là dòng dõi lạc tướng Mê Linh thời Hùng Vương. Theo truyền thuyết, chúng sinh trong một gia đình anh hùng ở Ba Vì, với Ngọc phả tại Hạ Lôi và Hát Môn - nơi có đền thờ của họ. Hai Bà Trưng là chị em sinh đôi, sinh vào ngày mồng một tháng tám năm Giáp Tuất (năm 14 sau Công Nguyên).
Trưng Trắc kết hôn với Thi Sách, lãnh chúa của Chu Diên, tạo nên liên kết chiến lược quan trọng. Cuộc hôn nhân chính trị này cũng là chìa khóa khởi đầu cho cuộc kháng chiến mạnh mẽ, nhằm chống lại Thái thú Tô Định của nhà Hán, đặc biệt sau cái chết của Thi Sách do Tô Định gây ra.
Trong thời gian ngắn, Hai Bà Trưng dẹp loạn giặc, trở thành nữ vương và lãnh đạo đất nước độc lập trong ba năm. Nhưng sau đó, quân đội nhà Hán do tướng quân Mã Viện chỉ huy đã quay lại xâm lược. Hai Bà Trưng dũng cảm đương đầu và tổ chức kháng chiến, chiến đấu từ Tây Vu, Lãng Bạc đến Cấm Khê, cuối cùng hy sinh anh dũng vào mùa hè năm Quý Mão (năm 43 sau Công Nguyên), để lại một tấm gương oanh liệt và hùng mạnh trong lòng người dân. Ngày nay, có nhiều đền thờ Hai Bà Trưng và các tướng lĩnh của họ trên khắp cả nước.


2. Hồ Xuân Hương - Bậc thầy thơ ca hài hước và độc đáo
Hồ Xuân Hương, sinh năm (1772-1822) (2) con ông Hồ Phi Diễn, làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu Nghệ An. Theo một số tài liệu dẫn chứng: Hồ Sĩ Anh đời nhà Lê sinh bốn người con trai: Hồ Thế Viêm, Hồ Phi Quyền, Hồ Phi Cơ, Hồ Phi Tích (1665-1734 đậu Hoàng giáp năm 1700). Hồ Thế Viên là ông Tổ bốn đời của anh em nhà Tây Sơn đã đổi từ họ Hồ sang Nguyễn, còn Hồ Phi Cơ là ông tổ bốn đời cuả Hồ phi Mai tức nữ sĩ Xuân Hương. Như vậy Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Hồ Xuân Hương là anh em cùng họ ông tổ năm đời.
Nhà thơ nữ tài hoa, độc đáo và hài hước nhất là Hồ Xuân Hương. Bà sống vào cuối thời Hậu Lê, là tác giả của hơn 50 bài thơ vừa trữ tình, vừa sắc sảo, mới lạ, lại đa nghĩa và mang tính hài hước, châm biếm sâu cay như: 'Bánh trôi nước', 'Tự tình', 'Lấy chồng chung',... Bà được mệnh danh là 'Bà chúa thơ Nôm'.
Hồ Xuân Hương có phong cách riêng tiêu biểu cho thái độ tự nhiên tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân Hương rất bình dân, duyên dáng giàu khả năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và cảm khoái, không dùng hán tự điển tích. Bà có biệt tài sử dụng điệp khúc, âm điệu và tiết tấu, thích hợp với từng ý, từng hoàn cảnh. Dù muốn chê hay khen, đọc thơ Xuân Hương cảm thấy cái vui vui xen lẫn vào hồn, cái hay trong thơ Xuân Hương rất tuyệt vời, nhưng bài viết giới hạn không thể trình bày và trích giải hết được... Hồ Xuân Hương là nhà thơ độc đáo có một không hai trong văn học sử ...& Đại


3. Hoàng hậu Lý Chiêu - Người phụ nữ đặc biệt trong lịch sử
Hoàng hậu Lý Chiêu, hay còn được gọi là Lý Phế hậu hoặc Chiêu Thánh Hoàng hậu, đồng thời cũng là nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam, không phải là nữ vương đầu tiên, vị quân chủ nữ đầu tiên là Nữ vương Trưng Trắc. Đặc biệt, Lý Chiêu Hoàng được chính vua cha Lý Huệ Tông chọn làm người kế vị, mặc dù có khả năng đó là do sắp đặt của Điện tiền Chỉ huy sứ Trần Thủ Độ, người đang giữ quyền lực trong triều, cũng là chú họ của bà.
Năm 1226, Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông) theo sắp xếp của Trần Thủ Độ, đánh dấu sự kết thúc của triều đại nhà Lý sau hơn 200 năm. Sau khi nhường vị, Chiêu Hoàng trở thành Hoàng hậu Thánh chi của Thái Tông cho đến khi bị phế truất vào năm 1237 (lúc đó Chiêu Hoàng 19 tuổi), vì bà không có con nối dõi. Chị ruột của bà, Hiển Từ Thuận Thiên Hoàng hậu, sau đó trở thành người kế vị ngôi hoàng hậu.
Sau năm 1258, ở tuổi 40, bà tái giá lấy Lê Phụ Trần, một viên tướng có công cứu giúp Thái Tông. Hai người sống với nhau hơn 20 năm và có 1 trai là Thượng vị hầu Lê Tông và 1 gái là công chúa Ứng Thụy Ngọc Khuê. Bà qua đời ngay sau Thái Tông khoảng 1 năm. Cuộc đời phức tạp và bi kịch của bà trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm nghệ thuật.


4. Nguyễn Thị Chiên - Nữ Anh hùng đầu tiên của quân đội hiện đại
Nguyễn Thị Chiên (1930 – 2016), sinh tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình, là Trung tá quân đội nhân dân Việt Nam và Nữ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Năm 1946 đến 1952, Nguyễn Thị Chiên tích cực tham gia xây dựng cơ sở kháng chiến, chỉ huy Đội du kích xã Tán Thuật, đánh địch chống càn, phá giao thông đường 39, phá tề... Bà đã tiêu diệt, làm bị thương và bắt 15 quân địch. Tháng 4 năm 1950, bị quân địch bắt, dụ dỗ, tra tấn suốt 3 tháng rưỡi, nhưng vẫn trung thành, không khai báo.
Tháng 10 năm 1951, trong trận phục kích đánh địch trên đường 39, bà bắn bị thương 1 quân địch, bắt sống 6 lính địch, thu được 4 súng. Tháng 12 năm 1951, khi quân đội Pháp lùng sục vào làng, Bà chỉ huy du kích bất ngờ xông ra bắt sống 4 lính Pháp. Năm 1952, Nguyễn Thị Chiên được bầu là chiến sĩ thi đua toàn quốc, là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Sau chiến tranh, bà trở về công tác tại Tổng cục Chính trị, Quân khu Thủ đô. Bà được thăng quân hàm trung tá vào năm 1984. Nguyễn Thị Chiên qua đời vào lúc 8h20 phút, sáng ngày 1/6/2016, tại Bệnh viện Đa khoa Đức Giang (Long Biên, Hà Nội), hưởng thọ 87 tuổi.


5. Sương Nguyệt Ánh - Người phụ nữ đầu tiên giữ chức Tổng biên tập
Trong thời kỳ đầu của báo chí quốc ngữ Việt Nam, phụ nữ đã có sự tham gia ít ỏi nhưng đóng góp quan trọng. Một nữ chủ bút nổi tiếng được ghi nhận trong lịch sử là Nhà thơ Sương Nguyệt Anh. Tên thật của bà là Nguyễn Ngọc Khuê (có nơi ghi là Nguyễn Xuân Khuê hay Nguyễn Xuân Hạnh), sinh ngày 8/3/1864 tại Ba Tri (Bến Tre). Bà là con thứ tư của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và ra đời trong thời kỳ đất nước đang trải qua những ngày đau thương chống lại quân thù.
Lớn lên giữa cảnh đất nước đang chịu khổ dưới gót giày quân thù, bên cạnh cha - nhà thơ kiệt xuất, bà sớm thừa hưởng chí tài và đức tính từ cha mình. Từ nhỏ, bà đã nổi tiếng với sắc đẹp và tài năng, nhưng khi bước vào cuộc sống, bà không gặp may. Kết hôn vào tuổi 24, và chỉ vài năm sau, chồng bà qua đời, để lại bà nuôi con gái. Cả hai cha mẹ đều đã ra đi, khiến cuộc sống của bà trở nên cô đơn hơn, và bà gắn thêm chữ “Sương” trước tên hiệu “Nguyệt Anh”.
Sương Nguyệt Anh đã đương đầu với số phận, không để ý đến những biến cố xã hội, nhưng tài năng và tinh thần lạc quan của bà đã làm cho cuộc đời bà trở nên phong phú. Trong những năm đầu thế kỷ XX, khi Phan Bội Châu tuyên bố phong trào “Đông du”, bà tích cực ủng hộ, thậm chí bán cả đất vườn để hỗ trợ các du học sinh. Mặc dù phong trào bị đàn áp và thất bại, bà vẫn không nản chí, tiếp tục đóng góp cho công cuộc cứu nước... Năm 1917, bà được một nhóm chí sĩ mời làm chủ bút cho tờ báo Nữ giới chung (Tiếng chuông của nữ giới) - tờ báo đầu tiên của phụ nữ Việt Nam, và bà đã chấp nhận mệnh lệnh đó. Tuy nhiên, đến tháng 7/1918, tờ báo Nữ giới chung bị đình bản, và bà quay về Ba Tri, theo đuổi công việc giáo dục, nghiên cứu và sáng tác thơ văn cho đến ngày mất (9/1/1922).
Bằng tất cả tài năng và tâm huyết, suốt cuộc đời đấu tranh vì mục tiêu chung, Sương Nguyệt Anh để lại ấn tượng đẹp về một nữ chủ bút đầu tiên, một nhà thơ đa tài và người tiên phong trong cuộc sống đấu tranh cho quyền lợi và địa vị của phụ nữ Việt Nam. Ngày nay, tên của bà được đặt cho nhiều đường phố, trường học, hội bút, câu lạc bộ... với lòng trọng kính và tự hào sâu sắc. Nhà thơ Nguyễn Liên Phong (tác giả của Điếu cổ hạ kim) đã viết những lời xứng đáng về Sương Nguyệt Anh:
Gương tỏ đời nay trang tiết phụ,
Lâu đài tiếng tốt tạc non sông.


6. Hoàng Xuân Sính - Nữ giáo sư, nhà toán học xuất sắc
Hoàng Xuân Sính (sinh ngày 8 tháng 9 năm 1933) là một chính trị gia, nhà quản lý giáo dục, nhà toán học, giáo sư, nhà giáo Nhân dân, và là người phụ nữ đầu tiên đạt được học vị tiến sĩ toán học tại Việt Nam. Bà sinh ra ở làng Cót, Từ Liêm, Hà Nội (nay thuộc phường Yên Hòa, quận Cầu Giấy). Gia đình bà sống tại nhà 102 phố Hàng Bông, Hà Nội, trong giai đoạn đau thương khi mẹ bà qua đời khi bà mới 8 tuổi. Bố của bà là ông Hoàng Thúc Tấn, một nhà tư sản và nhà hảo tâm, cùng với vợ sau này là một nữ doanh nhân trong ngành vải sợi.
Bà làm nghiên cứu sinh tại Đại học Paris 7 dưới sự hướng dẫn của nhà toán học nổi tiếng người Pháp Alexander Grothendieck. Luận án Tiến sĩ Toán học của bà có đề tài 'Các Gr-phạm trù'[6] được bảo vệ vào năm 1975. Trước khi bảo vệ luận án, bà đã chia sẻ kết quả nghiên cứu của mình tại Đại hội Toán học Việt Nam năm 1971 ở Hà Nội và Đại hội Toán học thế giới năm 1974 ở Vancouver (Canada). Bà giảng dạy và viết giáo trình về đại số, đồng thời giữ các vị trí quan trọng trong ngành giáo dục tại Việt Nam.
Hoàng Xuân Sính là một trong những người sáng lập Đại học Thăng Long, trường đại học tư thục đầu tiên ở Việt Nam (15/12/1988), và hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị của trường. Bà còn là thành viên Hội đồng xét tặng Giải thưởng khoa học Kovalevskaya tại Việt Nam. Nhiều lần bà đại diện Việt Nam tham gia Olympic Toán Quốc tế. Bà cũng tích cực tham gia các hoạt động xã hội và có những đóng góp quan trọng trong lĩnh vực chính trị và giáo dục.


7. Võ Thị Sáu - Nữ anh hùng lực lượng vũ trang trẻ nhất
Võ Thị Sáu (1037 – 1953), quê ở Bà Rịa, được biết đến với biệt danh “Người con gái đất đỏ”. Khi quân Pháp xâm lược, Võ Thị Sáu, lúc 12 tuổi, đã tung lựu đạn, giết chết ba chỉ huy Pháp. Chị nổi tiếng với tình báo, biệt động và giao liên đặc biệt. Thực hiện ám sát không thành công Đốc phủ Tòng, Võ Thị Sáu bị bắt khi mới 15 tuổi.
Trong tù, chị tiếp tục hoạt động cách mạng. Tháng 12 năm 1952, Pháp chuyển chị đến Côn Đảo, giam giữ tại nhà lao “Đá trắng”. Đam mê múa hát từ nhỏ, thậm chí khi đối diện tử hình, chị vẫn không ngừng ca hát. Khi bị xử bắn, chị mắng: “Tao là người yêu nước, tao không có tội, chỉ mày là bọn xâm lược, giết dân tao mới là kẻ có tội.”
Trước khi ra đi, chị gọi lên: “Việt Nam muôn năm! Bác Hồ muôn năm!”. Võ Thị Sáu hy sinh khi chưa đầy 17 tuổi. Năm 1993, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang và Huân chương chiến công hạng Nhất.


8. Nguyễn Nhược Thị Bích - Người làm cô giáo của nhiều vua nhất
Bà Nguyễn Thị Nhược Bích sinh năm 1830, quê làng An Phước, tỉnh Ninh Thuận (trước đây là Phan Rang), con thứ tư của Nguyễn Nhược Sơn (có tên gọi là Nguyễn Nhược San). Nguyễn Nhược Sơn là một nhân tài hiếm hoi của vùng Chiêm Thành, Ninh Thuận. Ông có tính tình khẳng khái, không chịu ràng buộc trong khuôn phép, gặp việc gì đáng làm là làm không cần suy nghĩ và cũng không sợ hậu quả xấu đến với mình. Bởi thế, trong quãng đời làm quan, ông không ít lần bị bãi chức. Cũng nhờ tài trí thông minh và sự phóng khoáng của người cha mà bà Nguyễn Thị Nhược Bích đã được ăn học và bộc lộ tài năng của mình. Bà đi theo cha làm quan nhiều nơi nhưng bất cứ ở nơi nào bà cũng được mọi người ca ngợi.
Năm 1848, bà được tiến cử vào cung cho Vua Tự Đức. Trong một buổi ngâm vịnh, Vua Tự Đức đề thơ Tào Mai (Hoa mai sớm nở) và bài hoạ của bà được vua khen tặng cho 20 nén bạc, đồng thời cho sung chức Thượng Nghi Viên Sư. Năm 1868, bà được Vua Tự Đức giao cho việc dạy học cho các hoàng tử - sau này là các vị vua Đồng Khánh, Kiến Phúc. Trong cung đình với tài thơ văn của mình, bà đã dạy cho các hoàng tử những kiến thức về văn học, hán nôm, phép tắc lễ nghi nơi cung cấm... Vì thế, người ta gọi bà là Tiệp Dư Phu Tử. Với công lao đóng góp của bà cho triều đình, nhà Nguyễn đã lần lượt phong cho bà các chức: Tài nhân (1850), Mỹ nhân (1860), rồi chức Quý nhân. Tư duy của bà theo khuynh hướng chính thống nên bà đã phải chịu đựng sự chuyên chế của hai quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết trong thời kỳ “Tứ nguyệt tam vương” (bốn tháng mà thay đến ông ông vua).
Năm 1885, Kinh thành thất thủ, Vua Hàm Nghi hạ Chiếu Cần vương, kêu gọi quan dân chống Pháp, bà phải Hộ giá Tam cung (thân mẫu của hai bà Chánh phi và Thứ phi của Vua Tự Đức) chạy theo vua ra Quảng Trị. Đến Quảng Trị mới được vài hôm, Tam cung không chịu được cảnh khổ cực nên đã quay trở lại Khiêm lăng chịu sự quản chế của người Pháp. Trong thời gian bà ở bên cạnh Vua Tự Đức, bà đã theo dõi và nắm được tất cả những sự việc xảy ra trong Cung đình Huế từ sau ngày Vua Tự Đức băng hà (19/7/1883) cho đến ngày Kinh thành Huế thất thủ (5/7/1885). Với sự thông minh và hiểu biết của mình, bà đã viết nên tác phẩm Hạnh Thục Ca, gồm 1018 câu lục bát, chữ nôm. Tác phẩm nói về việc thực dân Pháp sang xâm lược nước ta và ca ngợi công lao của Vua Tự Đức; việc lộng quyền của hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết trong việc phế lập các vua: Dục Đức, Hiệp Hoà, Kiến Phúc, Hàm Nghi.
Lời thơ trong Hạnh Thục Ca có một âm điệu nhẹ nhàng, phảng phất một nỗi buồn man mác. Mặc dù nhìn nhận sự việc trong triều đình với nhãn quan của một bà hoàng trong cung cấm nhưng Hạnh Thục Ca vẫn được lịch sử Việt Nam đánh giá là nguồn sử liệu có ý nghĩa lịch sử và văn học quý giá. Không phải là một người thông minh, có tài thơ văn, có lòng yêu nước thì không ai có thể viết được tác phẩm ấy. Từ sau ngày Vua Tự Đức mất, việc biên soạn Sắc dụ của Lưỡng Tôn Cung (mẹ Vua Tự Đức và bà Trang Ý, vợ chính của Vua Tự Đức) đều do một tay bà soạn thảo. Đến đời Vua Thành Thái (1892) bà được phong chức Tam Phi Lễ Tần. Bà mất vào năm Duy Tân thứ ba (1909), thọ 79 tuổi.


10. Hồ Ngọc Hà - Nữ ca sĩ, diễn viên nổi tiếng Việt Nam
Bà tên thật là Hồ Ngọc Hà, sinh ngày 25 tháng 3 năm 1984 tại Thanh Hóa, Việt Nam. Theo trang web của Hiệp hội Nghệ sĩ Việt Nam thì bà là nữ ca sĩ, diễn viên nổi tiếng và được biết đến với sự nghiệp âm nhạc đa dạng và ấn tượng. Cha bà là Hồ Đình Kha, người có địa vị trong giới kinh doanh và mẹ là người trụ trì chùa Bà Đá, xã Lam Sơn, thành phố Thanh Hóa.
Năm 2003, bà tham gia cuộc thi Hoa hậu Việt Nam và đoạt giải Á khôi trong sự ngỡ ngàng của nhiều người hâm mộ. Sự nghiệp ca hát của bà chính thức bắt đầu từ cuộc thi Sao Mai Điểm Hẹn, nơi bà giành giải Nhất và được biết đến với giọng hát đầy nồng nàn và khả năng biểu diễn sân khấu xuất sắc.
Ngoài sự nghiệp âm nhạc, bà còn hoạt động trong lĩnh vực diễn xuất với nhiều vai diễn độc đáo. Bà từng tham gia nhiều dự án phim truyền hình và điện ảnh, để lại ấn tượng mạnh mẽ với khán giả. Bà cũng là người mẫu nổi tiếng, thường xuyên xuất hiện trên các tạp chí thời trang và tham gia các sự kiện nghệ thuật.
Với tình yêu và đam mê nghệ thuật, Hồ Ngọc Hà không chỉ là một biểu tượng trong làng giải trí Việt Nam mà còn là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ trẻ. Bà tiếp tục chinh phục khán giả không chỉ bằng giọng hát quyến rũ mà còn bởi tài năng và phong cách đa dạng trong sự nghiệp của mình.


11. Nguyễn Thị Kim Ngân - Người phụ nữ xuất sắc, Chủ tịch Quốc hội Việt Nam
Vào ngày 31/3/2016, Nguyễn Thị Kim Ngân đã ghi dấu ấn lịch sử khi trở thành người phụ nữ đầu tiên giữ chức Chủ tịch Quốc hội tại Việt Nam. Sự kiện này không chỉ là niềm tự hào của bản thân bà mà còn là niềm vinh dự cho phụ nữ Việt Nam. Sinh năm 1954 tại Bến Tre, bằng thạc sĩ Kinh tế, bà Nguyễn Thị Kim Ngân đã có một sự nghiệp đầy ấn tượng trước khi đảm nhận vị trí quan trọng này. Bà là một trong những người phụ nữ tiêu biểu, xuất sắc nhất trong lịch sử chính trị và kinh tế của đất nước.
Bước vào chức vụ Chủ tịch Quốc hội, bà Nguyễn Thị Kim Ngân đã tuyên thệ cam kết trung thành với Tổ quốc, với Nhân dân, và với Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Bà đã đưa ra những quyết định và đề xuất những luật lệ quan trọng, góp phần tích cực trong sự phát triển của đất nước.
Với sự nghiệp đồng lòng và tâm huyết, bà Kim Ngân đã giữ vững tư duy và phương hướng lãnh đạo, góp phần quan trọng trong việc định hình chiều hướng phát triển của Việt Nam. Tuy nhiên, như mọi người, bà cũng phải đối mặt với những thách thức và áp lực từ dư luận và xã hội. Sau một thời gian làm việc tích cực, vào ngày 30/3/2022, bà Kim Ngân đã nghỉ hưu theo quy định.

