1. Chiến tranh đơn phương
Tình hình:
Vào ngày 7/11/1954, Mỹ cử tướng Cô-lin làm đại sứ ở miền Nam Việt Nam với âm mưu biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, chuẩn bị cho cuộc tiến công miền Bắc và ngăn chặn làn sóng cách mạng ở Đông Nam Á.
Ngô Đình Diệm, được Mỹ hậu thuẫn, nhanh chóng xây dựng chính quyền độc tài ở miền Nam và đối mặt với phong trào cách mạng. Ông lập đảng Cần Lao, tuyên bố mục tiêu chống cộng, đả thực, bài phong.
Mục đích:
Chiến tranh đơn phương là một trong các chiến lược chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, với mục tiêu biến miền Nam thành thuộc địa mới, tạo điều kiện cho cuộc tiến công miền Bắc và ngăn chặn cách mạng Xã hội chủ nghĩa ở Đông Nam Á.
Thủ đoạn:
Ngô Đình Diệm ban bố 'đặt cộng sản ngoài vòng pháp luật', thực hiện đạo luật 10/59 để truy sát những người không chịu kiểm soát. Chính quyền Diệm triển khai chương trình cải cách điền địa để lấy lại đất đai từ nhân dân, thành lập khu dinh điền và khu trù mật để kiểm soát nhân dân.

2. Chiến tranh toàn diện
Sự kiện:
Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ đã chuyển hướng sang chiến lược “Chiến tranh toàn diện” ở miền Nam trong giai đoạn từ giữa năm 1965 đến 1968.
Đặc điểm:
“Chiến tranh toàn diện” là mô hình chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, được thực hiện bởi quân đội Mỹ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn. Mục tiêu là tạo ra ưu thế quân sự, lấy lại thế chủ động trên chiến trường.
Chiến lược:
- Tăng cường quân số viễn chinh Mỹ và các phương tiện chiến tranh tiên tiến vào miền Nam. Đến năm 1968, số quân Mỹ ở miền Nam vượt quá 50 vạn binh sĩ.
- Tiến hành hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965 – 1966 và 1966 – 1967) thông qua hàng loạt cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” tại “Đất thánh Việt Cộng”.
- Phá hủy tiềm lực kinh tế – quốc phòng ở miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ bên ngoài vào miền Bắc và từ Bắc vào Nam. Đồng thời, gây chấn động tâm hồn chống Mỹ của nhân dân ta.