Khoảng thời gian 15 – 30 giây trước bài nghe vô cùng quan trọng bởi đây là lúc thí sinh có cơ hội đọc sơ qua cho những nội dung cần nghe. Tuy nhiên chỉ đọc thôi chưa là đủ mà thí sinh còn phải kết hợp với việc dự đoán trước thông tin dựa trên câu hỏi đề bài trong lúc đọc. Bài viết sau sẽ tập trung khai thác IELTS Listening Tips: Kỹ năng dự đoán thông tin khi đọc câu hỏi đối với các dạng bài phổ biến trong IELTS Listening nhằm giúp thí sinh vạch định rõ những điều cần cân nhắc để có một sự chuẩn bị tốt và tận dụng hiệu quả khoảng thời gian trước bài nghe.
Nội dung kỹ năng dự đoán áp dụng cho tất cả các loại bài trong IELTS Listening
Sở dĩ điều này là cần thiết vì nó có thể mang lại 2 lợi ích sau:
Hướng sự tập trung đúng chỗ, tránh việc bị xao nhãng bởi những thông tin ngoài lề
Đối với dạng Table/ Note/ Form completion: dựa vào ngữ cảnh, thí sinh có thể dễ dàng nhận diện được từ vựng cần điền vào, hạn chế khả năng nhầm lẫn giữa các từ tương tự nhau về âm
Cụ thể, việc dự đoán này được thực hiện như sau:
Dựa vào tiêu đề bảng hỏi “Student Information” và những loại thông tin đặc trưng được đề cập đến như khoa, công việc từng làm, kỹ năng và sở thích…, thí sinh có thể đưa ra phỏng đoán đây là một cuộc đối thoại giữa một học sinh và nhân viên giới thiệu việc làm cho sinh viên. Như vậy, trường từ vựng trong bài nói thuộc chủ đề Work and Study. Từ đây thí sinh cần xác định rõ học sinh sẽ người cung cấp đáp án, do đó người nghe nên dành phần nhiều sự tập trung cho phần nói của người sinh viên hơn, các thông tin đưa ra bởi nhân viên giới thiệu có thể thường là hỏi hoặc gợi ý và có khả năng sẽ được sửa đổi lại bởi sinh viên.
Kỹ năng dự đoán thông tin cho từng loại bài trong IELTS Listening
Dạng bài Completion of Table/ Note/ Form
Đây là một dạng tương đối khó khăn trong IELTS Listening đối với nhiều thí sinh, đặc biệt cho những Starters (người bắt đầu học IELTS) bởi họ chưa có kinh nghiệm làm bài, không biết nên chú ý nghe những đoạn thông tin nào; do đó hầu như không biết điền gì vào chỗ trống, điền sai hoặc thiếu.
Nhìn chung, đối với dạng này, thí sinh cần xác định hai vấn đề chính: từ loại (Part of speech) của từ cần điền vào chỗ trống và loại thông tin của nó.
Một số lưu ý đối với các dạng thông tin đặc biệt:
Các loại code thường kết hợp chữ và số. Ví dụ: YO1 7AH
Địa chỉ thường được viết theo công thức: Số nhà + Tên đường + Thị trấn/ Thành phố (trong đó, số nhà đôi khi có thể kết hợp chữ + số). Ví dụ: 50A Beauclair Drive, Toussaint.
Trở lại với ví dụ ở mục (1), các chỗ trống cần điền vào khá tường minh, lần lượt theo thứ tự từ trên xuống là khoa ngành, địa chỉ (bao gồm số nhà và tên đường), tên công việc và ngôn ngữ.
Tuy nhiên, đối với ví dụ dưới đây, thí sinh cần dựa vào kiến thức ngữ pháp và kinh nghiệm của mình để dự đoán:
ORANA WILDLIFE PARK Facts about Orana
Things to do at Orana
|
(1): loại thông tin: ý nghĩa của từ “Orana” – chưa thể xác định từ loại
(2): dựa vào chữ “total” nghĩa là tổng cộng, ta xác định chỗ trống cần một con số + danh từ (số nhiều)
(3): dựa vào cụm “Things to do” và cách liệt kê ở dấu chấm thứ hai và thứ ba, ta xác định quy luật động từ ở đầu câu, do đó dự đoán vị trí này cũng cần một động từ ở dạng nguyên mẫu
(4): dựa vào cụm “in the…”, ta dự đoán chỗ trống điền vào có thể là nơi chốn hoặc thời gian sáng/ trưa/ chiều trong ngày.
(5): dựa vào cụm “doing their”, ta dễ dàng xác định chỗ trống cần một danh từ
Dạng bài Multiple Choice Questions:
Dạng bài Multiple Choice cũng mang lại những khó khăn nhất định cho thí sinh bởi khối lượng lớn thông tin mà thí sinh cần phải xử lý trong thời gian ngắn. Như vậy, thí sinh càng phải tận dụng thật tốt 30 giây đầu bài nghe để đọc lướt qua đề bài, đồng thời dự đoán và chú ý đến thông tin gây xao nhãng (distractions) có thể xảy ra trong bài. Cụ thể như sau, thí sinh cần đọc kỹ câu hỏi và khoanh tròn những distractions như: except, not, the most…
Ví dụ 1: What is NOT a fact about Starbucks’ origin?
It started as a small business
Starbucks was the first one to serve Italian- style coffee to Americans
Starbucks was the second biggest coffee in the U.S up to 2017
Dự đoán đưa ra: người nói có khả năng chỉ không đề cập đến một lựa chọn hoặc nói sai (ngược lại) so với một lựa chọn nào đó trên đề. Khi đó, lựa chọn ấy chính là đáp án.
Ví dụ 2: What is the main reason for Starbucks’s failure in Australia?
They opened too many coffee stores at once.
They failed to adapt to locals’ preferences.
They failed to deliver the “Starbuck story”.
Dự đoán đưa ra: người nói có khả năng cao sẽ đề cập đến cả ba lựa chọn nhưng 2 trong số đó không phải là nguyên do hoặc không là nguyên do chính. Khi đó, dùng phương pháp loại trừ, ta sẽ chọn được đáp án đúng.
Việc dự đoán như vậy phần nhiều dựa vào kinh nghiệm làm bài thực tiễn. Việc định hướng trước những khả năng mà thông tin được truyền tải sẽ giúp thí sinh tránh tâm lý nóng vội khi chọn đáp án và loại bỏ thói quen nghe vịn vào từ khóa thay vì cố gắng hiểu nội dung.
Lưu ý: Thí sinh tuyệt đối không dự đoán đáp án có thể chọn một cách chủ quan đối với dạng bài này bởi vì điều này có xu hướng dẫn đến tình trạng nghe có phân biệt hay chọn lọc thông tin theo ý kiến chủ quan của người nghe thay vì thông điệp mà người nói thực sự truyền tải (Biased listening or selective listening).
Dạng bài Matching Features
Giống với dạng bài Multiple Choice, Matching Features cũng mang lại cho thí sinh những khó khăn tương tự bởi khối lượng lớn thông tin cần xử lý. Đối với dạng này, thí sinh cần phân biệt sự khác nhau giữa những lựa chọn bằng cách gạch dưới những từ khóa quan trọng, đồng thời dự đoán và chú ý đến những đáp án tương tự nhau có thể nhầm lẫn.
Ví dụ: Which THREE ways does the tutor suggest Monica and Tom can improve their questionnaire?
make the questions shorter
make the questions simpler
increase the number of questions
ask more questions about the students’ homes
not to ask so many questions
ask for more explanations
ask more questions about cost
(Source: Get ready for IELTS listening)
Các lựa chọn trên có thể phân ra thành 2 nhóm tương tự nhau dễ nhầm lẫn mà thí sinh trong quá trình đọc trước bài nghe nên chú ý:
Nhóm câu a và b đều đề cập đến việc chỉnh sửa tính chất câu hỏi, điểm khác biệt đó là câu a đưa ra giải pháp ngắn hơn còn câu b là đơn giản hơn
Nhóm các câu còn lại đều đề cập đến việc thay đổi số lượng câu hỏi. Trong đó, câu e đề nghị giảm. Ngược lại, các câu khác đều tăng số lượng câu hỏi; trong đó, câu c chỉ đề cập tăng thêm số lượng, còn d, f, g yêu cầu tăng thêm câu hỏi về những khía cạnh khác nhau lần lượt là: students’ homes, explanations và cost
Việc phân biệt rõ ràng sự khác nhau giữa những lựa chọn như vậy cũng đồng nghĩa với việc thí sinh có thể dự trù trước và né tránh được những nhầm lẫn có thể phát sinh trong quá trình nghe.
Lưu ý:
Câu hỏi sẽ được đề cập trong bài nói theo đúng trình tự trên đề, tuy nhiên các đáp án được lựa chọn có thể không theo thứ tự từ trên xuống được sắp xếp sẵn trong list trên đề.
Thí sinh tuyệt đối không dự đoán đáp án có thể chọn một cách chủ quan.
Dạng bài Bản đồ
Map là một dạng bài đặc thù với những thử thách riêng có thể phát sinh trong quá trình nghe khác biệt so với ba dạng trước, do đó những vấn đề dự đoán từ việc phân tích đề cũng khác. Thông thường, thí sinh sẽ không tốn nhiều thời gian để đọc hết những chữ thể hiện trên bản đồ, tuy nhiên, hầu như đa số chưa khai thác được hết giá trị của thông tin tiềm ẩn, điều mà cũng quan trọng không kém:
Trình tự các câu hỏi trên bản đồ thường cũng chính là trình tự bài nói. Xác định được điều này, thí sinh sẽ có thể tránh rơi vào tình trạng “lạc đường” trong quá trình nghe.
Nhận định những đặc điểm đặc biệt và dự đoán cách thức miêu tả đối tượng hoặc vị trí so với các landmarks xung quanh
Ví dụ cụ thể như sau:
Trước hết, chúng ta có thể nhanh chóng xác định trình tự mô tả bản đồ sẽ đi từ vùng cổng vào “entrance” đi qua đài phun nước, đến khu vực ở giữa gốc cây và nhà vệ sinh và cuối cùng là các gian hàng ở phía trước xích đu.
Sau đó, chúng ta có thể chú ý đến các địa điểm nổi bật có thể được đề cập trong bài nói và dự đoán tên gọi của chúng bằng Tiếng Anh. Ví dụ: những gian hàng, quầy (stalls, booths), đài phun nước (water fountain), khu vực ở dưới gốc cây (the tree and the chairs), khu vực cầu trượt và xích đu (the park hoặc the playground).