Jessica | |
---|---|
Jessica vào năm 2022 | |
Sinh | 18 tháng 4, 1989 (35 tuổi) San Francisco, California, Hoa Kỳ |
Quốc tịch |
|
Nghề nghiệp |
|
Quê quán | Jeonju, Jeolla Bắc, Hàn Quốc |
Người thân | Krystal Jung (em gái) |
Tên tiếng Triều Tiên | |
Hangul | 정수연 |
Hanja | 鄭秀妍 |
Romaja quốc ngữ | Jeong Su-yeon |
McCune–Reischauer | Chŏng Suyŏn |
Hán-Việt | Trịnh Tú Nghiên |
Tên khai sinh | |
Hangul | 제시카 정 |
Romaja quốc ngữ | Jesika Jeong |
McCune–Reischauer | Chesik'a Chŏng |
Jessica Jung (sinh ngày 18 tháng 4 năm 1989), được biết đến với nghệ danh Jessica, là một nữ ca sĩ, diễn viên, nhà sáng lập thời trang cao cấp và doanh nhân người Mỹ gốc Hàn Quốc, từng là thành viên của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc Girls' Generation. Hiện nay, Jessica hoạt động dưới sự quản lý của công ty Coridel Entertainment.
Tiểu sử
Jessica Jung sinh ra tại San Francisco, California, Mỹ. Gia đình cô di cư sang Mỹ từ những năm 80 và trở về Hàn Quốc khi Jessica 11 tuổi. Bố cô là luật sư và võ sĩ quyền anh, còn mẹ là bà Lee Jung-suk, huấn luyện viên thể dục nhịp điệu.
Năm 2000, Jessica và em gái Krystal được phát hiện bởi SM Entertainment khi đi dạo cùng gia đình ở quận Bundang, Seongnam, Gyeonggi-do và được mời thử giọng. Jessica tham gia cuộc thi 2000 SM Casting System và trở thành thực tập sinh tại SM cùng năm đó. Sau đó, cô được đào tạo chuyên sâu về ca hát, vũ đạo và diễn xuất tại SM Town trong 7 năm 6 tháng. Jessica tốt nghiệp tại trường quốc tế Korea Kent Foreign School cùng với thành viên Tiffany vào tháng 5 năm 2007.
Sự nghiệp âm nhạc
2007-2014: Thành viên Girls' Generation
Jessica là thành viên đầu tiên của Girls' Generation gia nhập công ty quản lý SM Entertainment vào năm 2000. Cô được chọn là thành viên của nhóm nhạc nữ 9 thành viên và chính thức ra mắt vào ngày 5 tháng 8 năm 2007.
Ngoài các hoạt động trong nhóm, Jessica đã phát hành hai đĩa đơn cùng Seohyun và Tiffany: 'Love Hate' (tiếng Hàn: '오빠 나빠', Oppa Nappa) và 'Mabinogi (It's Fantastic!)'.
Jessica hợp tác với 8Eight cho ca khúc 'I Love You' từ album thứ hai của họ, Infinity, phát hành vào ngày 3 tháng 3 năm 2008. Mặc dù Jessica tham gia vào phần hòa âm, nhưng cô không xuất hiện trong MV. Ngoài ra, cô còn có nhiều bản song ca khác, bao gồm một với Onew của nhóm Shinee trong ca khúc 'One Year Later', và một với Park Myung-soo trong 'Naengmyeon'. Jessica cũng tham gia trong 'Seoul Song' cùng với Leeteuk, Sungmin, Donghae, Siwon, Ryeowook, Kyuhyun của nhóm Super Junior và các thành viên Girls' Generation là Taeyeon, Sunny, Sooyoung và Seohyun.
Màn ra mắt đầu tiên của Jessica trên sân khấu nhạc kịch là vở Legally Blonde phiên bản Hàn Quốc, cùng với Lee Ha-nui và Kim Ji-woo; quá trình dàn dựng bắt đầu vào ngày 14 tháng 11 năm 2009. Cùng năm đó, cô tham gia một phần đặc biệt trong chương trình Infinity Challenge cho số phát sóng đặc biệt mùa hè, trong đó cô được chọn để hát một bản song ca mang tên 'Naengmyeon' với Park Myung-soo, một trong những MC.
Tháng 3 năm 2010, Jessica đóng vai khách mời trong phim Oh! My Lady của đài SBS. Vào tháng 5 năm 2010, cô trở thành khách mời thường xuyên của chương trình Happy Birthday cho đến khi rút lui vào ngày 7 tháng 6 năm 2010, để tham gia các hoạt động ở nước ngoài của Girls' Generation. Cô cũng thường xuyên xuất hiện trong chương trình Star King cùng với thành viên Yuri. Jessica phát hành đĩa đơn kỹ thuật số 'Sweet Delight' vào ngày 13 tháng 10 năm 2010.
Năm 2011, Jessica tham gia hát nhạc phim Romance Town của đài KBS với bài hát 'Because Tears Are Overflows' (tiếng Triều Tiên: 눈물이 넘쳐서).
Jessica xuất hiện trong phim truyền hình đầu tay Wild Romance với vai khách mời và tái xuất trên sân khấu nhạc kịch Legally Blonde, cùng với Jung Eun-ji và Choi Woori. Buổi biểu diễn đầu tiên của cô là vào ngày 28 tháng 11 năm 2012. Jessica cũng thể hiện ca khúc 'What To Do' (hợp tác với Kim Jin-pyo) là nhạc nền của phim truyền hình Wild Romance, 'Butterfly' (song ca với em gái Krystal) cho phim thần tượng To The Beautiful You, 'Heart Road' cho phim truyền hình The King's Dream, và cũng có bài hát 'My Lifestyle', là ca khúc quảng cáo cho Hyundai i30.
Năm 2013, Jessica thể hiện ca khúc 'The One Like You' cho phim Dating Agency: Cyrano.
Năm 2014, Jessica phát hành bài hát 'Say Yes' cho nhạc phim Make Your Move, hợp tác với em gái Krystal và cựu thành viên của nhóm EXO, Kris.
Jessica và em gái Krystal tham gia chương trình truyền hình thực tế của riêng họ có tên Jessica & Krystal. Chương trình được phát sóng vào ngày 3 tháng 6 và gồm mười tập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2014, Jessica đăng bài trên tài khoản Weibo cá nhân cho biết cô đã bị 'ép ra khỏi nhóm'. SM Entertainment sau đó đã xác nhận điều này, nói rằng Jessica sẽ không còn là thành viên của Girls' Generation. Công ty cũng tuyên bố rằng nhóm sẽ tiếp tục quảng bá với 8 thành viên còn lại trong khi vẫn quản lý các hoạt động solo của Jessica.
Jessica đưa ra tuyên bố của mình thông qua công ty thời trang Blanc Group, giải thích rằng cô đã bị công ty quản lý và các thành viên khác của nhóm yêu cầu rời khỏi nhóm.
Ca khúc cuối cùng mà Jessica góp giọng cùng Girls’ Generation là 'Divine', trong phiên bản phát hành lại thuộc album thành công nhất của nhóm tại Nhật Bản, The Best.
Diễn xuất và ra mắt solo
Năm 2015, Jessica đã chính thức xác nhận vai nữ chính trong bộ phim hài tình cảm của Trung Quốc mang tựa đề I Love That Crazy Little Thing, đóng cặp cùng Trần Vỹ Đình và Tạ Đình Phong. Phim được ra mắt vào tháng 8 năm 2016, Jessica cùng Trần Vỹ Đình hát song ca trong bài hát chủ đề 'Love! Love! Aloha!'.
Vào ngày 6 tháng 8 năm 2015, SM Entertainment chính thức thông báo rằng công ty và cựu thành viên của Girls' Generation đã ngừng hợp tác. Năm sau đó, Jessica được xác nhận sẽ đóng vai nữ chính trong bộ phim tự truyện về Stephon Marbury mang tựa đề My Other Home, đóng cùng với chính Marbury. Cô cũng tham gia vào phim hài hành động ngắn Two Bellmen Three cùng Ki Hong Lee. Jessica còn tham gia chương trình tạp kỹ thể thao của Trung Quốc YES!Coach, tham gia một cuộc thi bơi lội sau khi được huấn luyện bởi vận động viên bơi lội chuyên nghiệp Tôn Dương. Cô cũng tham gia vào chương trình làm đẹp Beauty Bible cùng với cựu idol Kim Jae-kyung.
Tháng 2 năm 2016, Jessica thông báo rằng album solo đầu tiên của cô sẽ được phát hành dưới công ty quản lý mới, Coridel Entertainment.
Vào tháng 4 năm 2016, công ty quản lý thông báo rằng Jessica sẽ phát hành album đầu tiên của cô vào tháng 5. Vào ngày 30 tháng 4, Coridel Entertainment đã phát hành danh sách ca khúc bao gồm ca khúc chủ đề 'Fly' góp giọng với Fabolous. Jessica đã viết và sáng tác bốn trong số sáu bài hát. Tên của album sau được tiết lộ là With Love, J, và được phát hành vào ngày 17 tháng 5 năm 2016, cùng với đĩa đơn chính, 'Fly'.
MV ca khúc 'Fly' đã thu về hơn 2 triệu lượt xem trong vòng 24 giờ sau khi phát hành. Video cho đĩa đơn thứ hai, 'Love Me the Same', được phát hành vào ngày hôm sau, ngày 18 tháng 5 năm 2016. With Love, J đứng đầu bảng xếp hạng âm nhạc và cũng đứng đầu trên Bảng xếp hạng hàng tuần Hanteo và Bảng xếp hạng album hàng tuần Gaon. Phiên bản tiếng Anh cho album EP, được phát hành vào ngày 27 tháng 5, có 5 trong số 6 bài hát gốc.
Cùng năm, Jessica đã tổ chức một tour giao lưu gặp gỡ người hâm mộ châu Á bắt đầu tại Seoul vào ngày 1 tháng 6, tiếp tục đến các quốc gia khác như Thái Lan, Đài Loan và Nhật Bản. Chuyến lưu diễn kết thúc vào ngày 5 tháng 11 tại Thượng Hải. Các buổi biểu diễn tiếp theo dự kiến diễn ra tại Singapore, Indonesia, Philippines và Việt Nam đã bị hủy do vấn đề sức khỏe và lo ngại Jessica phải làm việc quá sức trước khi phát hành album tiếp theo.
Vào tháng 12, Jessica đã trở lại với một album Giáng sinh EP mang tên Wonderland, bao gồm sáu bài hát, trong đó cô tham gia viết bốn trong số đó. Album và ca khúc chủ đề cùng tên được phát hành vào ngày 10 tháng 12. Album cũng có một phiên bản tiếng Anh, với bốn trong số sáu bài hát gốc tiếng Hàn.
2017–nay: My Decade và tiểu thuyết đầu tay
Vào ngày 14 tháng 4 năm 2017, Coridel Entertainment đã phát hành một loạt hình ảnh teaser xác nhận rằng Jessica sẽ trở lại đầu tiên trong năm với một đĩa đơn kỹ thuật số mang tên 'Because It's Spring', vào ngày 18 tháng 4 năm 2017. Cũng trong tháng đó, tạp chí Forbes đưa Jessica vào danh sách 30 Under 30 Asia 2017, bao gồm 30 người dưới 30 tuổi có ảnh hưởng và đã tạo ra hiệu quả đáng kể trong lĩnh vực của họ. 'Because It's Spring' sau đó đã được đưa vào album EP thứ ba của cô ấy là My Decade, phát hành vào ngày 9 tháng 8 năm 2017 để kỷ niệm 10 năm kể từ khi ra mắt. Jessica đã tham gia viết 5 trong số 6 bài hát trong album. Đĩa đơn chính 'Summer Storm' và video âm nhạc của nó được phát hành cùng ngày.
Tháng 7 năm 2017, Jessia bắt đầu chuyến lưu diễn mini concert đầu tiên mang tên 'On Cloud Nine'. Buổi diễn đầu tiên của chuyến lưu diễn là ở Đài Bắc, diễn ra vào ngày 29 tháng 7 năm 2017. Jessica cũng tổ chức các buổi biểu diễn ở Seoul, Osaka, Tokyo và Bangkok như một phần của chuyến lưu diễn. Một chương trình dự kiến diễn ra tại Hồng Kông vào ngày 15 tháng 10 năm 2017 đã bị hủy bỏ do Bão Khanun ảnh hưởng đến khu vực này. Buổi trình diễn cuối cùng của 'On Cloud Nine' diễn ra tại Ma Cao vào ngày 3 tháng 3 năm 2018.
Tháng 5 năm 2018, Jessica đã ký hợp đồng với United Talent Agency. Công ty sẽ đại diện cho Jessica tại khu vực Bắc Mỹ trong lĩnh vực âm nhạc, điện ảnh, truyền hình và quảng cáo. Tháng 10, Jessica tổ chức một mini-concert thứ hai ở Đài Loan mang tên 'Golden Night'. Vào ngày 14 tháng 12, Jessica đã phát hành một đĩa đơn Giáng sinh mang tên 'One More Christmas' hợp tác với thương hiệu mỹ phẩm Amuse Cosmetics của Hàn Quốc.
Tháng 6 năm 2019, Jessica cùng em gái Krystal đã quay chương trình thực tế thứ hai của họ tại Mỹ. Đĩa đơn của Jessica, 'Call Me Before You Sleep' được phát hành kỹ thuật số vào ngày 26 tháng 9 và có sự góp mặt của rapper Giriboy trong phiên bản tiếng Hàn. Phiên bản tiếng Nhật đã được phát hành vào ngày 9 tháng 10 và có sự tham gia của CrazyBoy thuộc Sandaime J Soul Brothers. Ca khúc được sản xuất bởi Cha Cha Malone. Cô cũng tổ chức một buổi gặp gỡ người hâm mộ tại Nhật Bản, XOXO Jessica Jung Fan Meeting, vào ngày 2 tháng 10, với nhóm nhạc nữ GWSN xuất hiện với tư cách là người mở màn. Các buổi diễn tiếp theo được tổ chức tại Đài Loan và Thái Lan, lần lượt vào ngày 19 và 27 tháng 10. Trong cùng tháng, có thông báo rằng Jessica sẽ cho ra mắt cuốn tiểu thuyết đầu tay, Shine, vào mùa thu năm 2020 như một phần của hợp đồng hai cuốn sách với Simon Pulse, ấn bản của Simon & Schuster. Glasstown Entertainment đã bán cuốn tiểu thuyết cho mười một quốc gia và đang phát triển một bộ phim chuyển thể do Matthew Kaplan của ACE Entertainment sản xuất.
Shine, phát hành vào ngày 30 tháng 9 năm 2020, đứng ở vị trí thứ năm trong danh sách Sách bán chạy nhất của The New York Times trong danh mục Sách bìa cứng dành cho giới trẻ trong số ra ngày 18 tháng 10.
Vào tháng 5 năm 2010, Jessica tham gia vào chương trình truyền hình 'Happy Birthday'. Cô rời khỏi chương trình này vào ngày 7 tháng 6 năm 2010 vì những hoạt động ở nước ngoài của SNSD.
Kinh doanh
Thương hiệu thời trang riêng
Tháng 8 năm 2014, Jessica ra mắt thương hiệu thời trang riêng Blanc & Eclare, được miêu tả là một thương hiệu với những sản phẩm kết hợp nét hiện đại và cổ điển cùng những chi tiết thú vị được lấy cảm hứng từ gu thời trang của riêng Jessica.
Cô chia sẻ: 'Ước mơ của tôi về việc ra mắt Blanc cuối cùng đã thành hiện thực. Tôi rất phấn khích khi phát triển một nhãn hiệu thời trang và giới thiệu nó ra thế giới. Qua công việc sáng tạo với các nhà thiết kế và người mẫu thời trang, tôi học được rất nhiều và tôi rất mong muốn được tiếp tục chia sẻ những thông tin mới về các đối tác mà tôi có được.' Thương hiệu sau đó đã được đổi tên thành Blanc & Eclare.
Đời tư
Trong một mini concert tại Đài Loan vào tháng 7 năm 2017, Jessica đã tiết lộ rằng tên khai sinh trên hộ chiếu cá nhân là 'Jessica Jung', trong khi tên tiếng Hàn 'Soo-yeon' chỉ được chọn về sau do cần thiết. Cô ấy tự mô tả mình là 'Cơ đốc giáo ham tìm tòi' và đi nhà thờ..
Ngày 17 tháng 5 năm 2016, Jessica xác nhận đang hẹn hò với bạn trai đại gia từ năm 2013.
Giọng ca
- Loại giọng: Soprano lời nhẹ (Nữ cao trữ tình loại sáng)
- Quãng giọng: D3 ~ G5 ~ D6 (3 quãng tám)
- Dải âm thanh hỗ trợ: G3/G#3 ~ B4/C5
Danh sách album
Album phát hành
Tên | Thông tin album | Vị trí cao nhất | Doanh số | ||||
---|---|---|---|---|---|---|---|
Hàn Quốc |
Nhật Bản |
Billboard charts |
Top Heatseekers |
||||
With Love, J |
|
1 | 34 | 4 | 16 |
| |
Wonderland |
|
1 | 85 | 7 | — |
| |
My Decade |
|
Danh sách album solo
Năm | Tên đĩa đơn | Bài hát | Độ dài | Nghệ sĩ |
---|---|---|---|---|
2007 | SBS Thirty Thousand Miles in Search of My Son | "Touch the Sky" | 03:49 | Cùng Taeyeon, Seohyun, Sunny và Tiffany |
2008 | Roommate | "Love Hate" | 03:45 | Cùng Seohyun và Tiffany |
It's Fantastic | "It's Fantastic" | 03:40 | Cùng Seohyun và Tiffany | |
Infinity | "I Love You" | 03:40 | Cùng 8eight | |
"Holding Hands" | 03:54 | Cùng Tiffany, Super Junior, SS501, Jewelry, Brown Eyed Girls, Lee Hyun và T.G.U.S | ||
KBS Hong Gildong OST | "The Little Boat (작은 배)" | 03:27 | Cùng Taeyeon, Seohyun, Sunny và Tiffany | |
"Haptic Motion" | 01:31 | Cùng Taeyeon, Seohyun và Sunny | ||
2009 | Olympic Duet Song Festival | "NaengMyun" | 03:41 | Cùng Park Myung-soo |
Tell Me Your Wish (Genie) | "One Year Later" | 04:00 | Cùng Onew | |
MBC Heading to the Ground OST | "Motion" | 04:06 | Cùng Taeyeon, Seohyun, Sunny và Tiffany | |
"S.E.O.U.L." | 03:47 | Cùng Taeyeon, Seohyun, Sunny và Kyuhyun, Sungmin, Ryeowook, Donghae và Leeteuk của Super Junior | ||
"I Can't Bear Anymore (Bear Song)" | 02:43 | Cùng Taeyeon, Seohyun and Sunny | ||
2010 | Sweet Delight | "Sweet Delight" | 03:20 | Solo |
"Cabi Song" | 03:19 | Cùng Taeyeon, Tiffany, Seohyun, Sunny, Yuri, Chansung, Junsu, và Taecyeon | ||
"Cooky" | 02:50 | Cùng Tiffany, Seohyun và Sunny | ||
My Friend Haechi | "Haechi Song" (해치송) | 03:26 | Cùng Taeyeon, Sunny, Tiffany và Seohyun | |
2011 | Romance Town | "Because Tears Are Overflowing" | 04:46 | Solo |
2012 | KBS Wild Romance | "What To Do" | 03:54 | Cùng Kim Jin-pyo |
SBS To the Beautiful You | "Butterfly" | 03:01 | Cùng Krystal | |
KBS The King's Dream | "Heart Road" | 04:19 | Solo | |
PYL Younique Volume 1 | "My Unique Lifestyle" | 03:06 | Cùng Dok2 | |
2013 | Dating Agency: Cyrano | "The One Like You" | 04:15 | Solo |
2014 | Make Your Move 3D | "Say Yes" | 03:58 | Cùng Krystal Jung và Kris Wu |
"Cheap Creeper" | 03:01 | Cùng Taeyeon, Tiffany, Sunny & Seohyun |
Đĩa đơn
Năm | Tên Bài Hát | Vị trí cao nhất | |
---|---|---|---|
Hàn Quốc | Hoa Kỳ | ||
Gaon | Billboard | ||
2010 | "Sweet Delight" | 48 | — |
2011 | "Because Tears Are Overflowing" | 20 | — |
2012 | "What To Do" (with Kim Jin-pyo) | 12 | 14 |
"Butterfly" (with Krystal) | 22 | 17 | |
"Heart Road" | 57 | 43 | |
"My Lifestyle" (with Dok2) | 34 | 30 | |
2013 | "The One Like You" | 37 | 21 |
2016 | "Fly"" | 4 | - |
2017 | " Summer Storm " |
Video âm nhạc
Năm | Tên | Ngày phát hành |
---|---|---|
2016 | Fly | 17 tháng 5 năm 2016 |
Love Me The Same | 18 tháng 5 năm 2016 | |
WONDERLAND | 10 tháng 12 năm 2016 | |
2017 | Summer Storm | 09 tháng 8 năm 2017 |
Danh sách phim
Bộ phim điện ảnh
Năm | Tên phim | Vai | Chú thích |
---|---|---|---|
2012 | I AM. – SM Town Live World Tour in Madison Square Garden | Chính mình | Phim tiểu sử của SM Town |
2016 | I Love That Crazy Little Thing | Lạc Thiến Thiến | |
2016 | My Other Home |
Chương trình truyền hình
Năm | Tên phim | Vai | Ghi chú | Đài phát sóng |
---|---|---|---|---|
2008 | Unstoppable Marriage | Một trong 7 công chúa của Bulgwang-dong | Khách mời | KBS2 |
2009 | Tae-hee, Hye-kyo, Ji-hyun! | Giáo viên tiếng Anh | Khách mời | MBC |
2010 | Oh! My Lady | Chính mình | Khách mời | SBS |
2012 | Wild Romance | Kang Jong-hee | Vai phụ | KBS2 |
Chương trình thực tế
Năm | Tên chương trình | Tập | Ghi chú |
---|---|---|---|
2010 | Happy Birthday | All | |
2014 | Jessica & Krystal | 1-10 | cùng Krystal, mô tả hoạt động hàng ngày của hai chị em |
2015 | Yes! Coach | 7 | show thể thao, bơi lội |
12 Đạo Phong Vị | 9 | Khách mời | |
2021 | Jessica & Krystal – US Road Trip | 1-8 | cùng Krystal Jung |
2022 | Tỷ Tỷ Đạp Gió Rẽ Sóng 3 | 1-12 | Thí sinh - Thành đoàn - Vị trí 2 |
Ban Nhạc Bên Bờ Biển | 1-4, 6-10 | Thành viên chính | |
2023 | Great Dance Crew 2 | 1-10 | Đội trưởng |
Giọng Hát Trời Ban 4 | 5-8 | Khách mời |
Nghệ thuật biểu diễn
Năm | Tên | Vai | Ghi chú |
---|---|---|---|
2009–2010; 2012–2013 | Legally Blonde | Elle Woods | Vai chính |
Giải thưởng và đề cử
Năm | Giải thưởng | Hạng mục | Kết quả |
---|---|---|---|
2012 | 3rd Annual Barbie & Ken Awards | Korean Barbie | Đoạt giải |
SBS MTV Best of the Best | Vai khách mời xuất sắc nhât | Đề cử | |
2013 | 7th The Musical Award | Popularity Award | Đoạt giải |
2014 | 7th Style Icon Awards | Top 10 Style Icons (with Krystal Jung) | Đoạt giải |
Sohu Fashion Awards | Biểu tượng thời trang châu Á | Đoạt giải | |
2015 | Yahoo Asia Buzz Awards | Giải thưởng mức độ phổ biến châu Á | Đoạt giải |
2016 | YinYueTai 4th V Chart Awards | Nghệ sĩ xu hướng (Hàn Quốc) | Đoạt giải |
2023 | Sohu Fashion Awards | Fashionista Award | Đoạt giải |
Đêm Hội Weibo | Ca sĩ nổi bật | Đoạt giải | |
China Music Awards | Annual Fashion Singer Award | Đoạt giải |