
Cuadrado trong màu áo Juventus năm 2019 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Juan Guillermo Cuadrado Bello | ||
Ngày sinh | 26 tháng 5, 1988 (36 tuổi) | ||
Nơi sinh | Necoclí, Colombia | ||
Chiều cao | 1,76 m (5 ft 9+1⁄2 in) | ||
Vị trí |
Tiền vệ cánh Hậu vệ biên | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Inter Milan | ||
Số áo | 7 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
Atlético Uraba | |||
Independiente Medellín | |||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2008–2009 | Independiente Medellín | 30 | (2) |
2009–2012 | Udinese | 20 | (0) |
2011–2012 | → Lecce (cho mượn) | 33 | (3) |
2012–2015 | Fiorentina | 85 | (20) |
2015–2017 | Chelsea | 13 | (0) |
2015–2017 | → Juventus (mượn) | 58 | (6) |
2017–2023 | Juventus | 166 | (14) |
2023– | Inter Milan | 0 | (0) |
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2010– | Colombia | 115 | (11) |
Thành tích huy chương | |||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 4 tháng 6 năm 2023 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 20 tháng 6 năm 2023 |
Juan Guillermo Cuadrado Bello (sinh ngày 26 tháng 5 năm 1988) là cầu thủ bóng đá người Colombia hiện đang chơi ở vị trí tiền vệ cánh hoặc hậu vệ biên cho câu lạc bộ Inter Milan và Đội tuyển bóng đá quốc gia Colombia.
Cuadrado bắt đầu sự nghiệp tại Independiente Medellín và chuyển đến Ý vào năm 2009 để gia nhập Udinese. Không có nhiều cơ hội thi đấu tại Udinese, anh được cho mượn đến Lecce trong mùa giải 2011-12, nơi anh thể hiện phong độ xuất sắc và được Fiorentina ký hợp đồng. Vào tháng 2 năm 2015, anh gia nhập Chelsea nhưng chỉ sau sáu tháng đã trở lại Ý để thi đấu cho Juventus theo dạng cho mượn.
Cuadrado có màn ra mắt đội tuyển Colombia vào tháng 9 năm 2010. Anh cùng đội tuyển Colombia lọt vào tứ kết World Cup 2014 và dẫn đầu giải đấu với số lần kiến tạo nhiều nhất, tổng cộng bốn lần.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Atletico Uraba và Independiente Medellín
Cuadrado được sinh ra tại Necoclí, một thị trấn nhỏ ở miền bắc Colombia. Cha của anh, ông Guillermo, một tài xế xe tải, đã bị bắn chết khi Cuadrado mới chỉ năm tuổi.
Câu lạc bộ đầu tiên trong sự nghiệp của Cuadrado là Atletico Uraba, một đội bóng địa phương. Anh bắt đầu sự nghiệp ở vị trí tiền đạo nhưng sau khi nhận được lời khuyên từ người sáng lập Atletico Uraba, ông Nelson Gallego, anh đã chuyển sang chơi ở vị trí tiền vệ cánh. Sau thời gian ngắn thi đấu cho đội bóng hạng hai Rionegro với vai trò dự bị, tài năng của anh đã được Independiente Medellín, một trong những câu lạc bộ hàng đầu của Colombia, chú ý và anh gia nhập đội bóng này vào năm 2008.
Cuadrado ghi bàn ngay trong trận đấu ra mắt với Independiente Medellín gặp Boyacá Chicó. Trong mùa giải đầu tiên, anh thi đấu ở vị trí hậu vệ phải và vào mùa hè năm 2009, anh chuyển đến Ý để thi đấu cho Udinese với mức phí chuyển nhượng không được công khai.
Udinese và Lecce
Cuadrado có một thời gian thi đấu không thành công tại Udinese với chỉ 24 lần ra sân trong hai mùa giải và không ghi được bàn nào. Sau đó, anh được cho Lecce mượn trong mùa giải 2011-12, nơi anh ghi được ba bàn và thực hiện hai pha kiến tạo sau 33 trận đấu, bao gồm một bàn thắng đẹp mắt từ giữa sân trong chiến thắng 4-1 trước Siena. Dù Lecce bị xuống hạng, tài năng của Cuadrado đã thu hút sự chú ý của Fiorentina, đội đã trả 4,5 triệu Bảng Anh để mua 50% quyền sở hữu Cuadrado.
Fiorentina
Ngày 23 tháng 7 năm 2012, Cuadrado chính thức gia nhập Fiorentina. Anh ghi bàn đầu tiên cho đội bóng này trong trận thắng 4-1 trước Cagliari vào ngày 4 tháng 11 năm 2012. Trong mùa giải đầu tiên tại Fiorentina, Cuadrado ghi được 5 bàn và có 6 pha kiến tạo, góp công giúp Fiorentina xếp thứ tư tại Serie A 2012-13.
Vào ngày 11 tháng 2 năm 2014, Cuadrado ấn định chiến thắng 2-0 cho Fiorentina trước đội bóng cũ Udinese trong trận bán kết lượt về Coppa Italia, đưa Fiorentina đến chiến thắng chung cuộc 3-2. Tuy nhiên, anh không thể tham dự trận chung kết vì án treo giò và Fiorentina sau đó thua 1–3 trước Napoli. Trong mùa giải 2013-14, Cuadrado ghi 11 bàn và có 5 pha kiến tạo.
Ngày 16 tháng 6 năm 2014, khi có tin đồn về việc Cuadrado sẽ chuyển đến một đội bóng lớn hơn, Fiorentina đã quyết định mua lại toàn bộ quyền sở hữu hợp đồng của anh từ Udinese. Anh ghi bàn đầu tiên trong mùa giải 2014-15 trong trận đấu tại UEFA Europa League gặp đội bóng Pháp En Avant de Guingamp. Ngày 24 tháng 10 năm 2014, anh ký hợp đồng mới với Fiorentina, gắn bó với đội bóng Ý đến năm 2019. Cuadrado rời Fiorentina trong kỳ chuyển nhượng mùa đông năm 2015, kết thúc thời gian ở đây với 20 bàn thắng sau 85 trận đấu trên mọi đấu trường cho đội bóng áo tím.
Chelsea
Vào ngày 2 tháng 2 năm 2015, câu lạc bộ Chelsea của Anh công bố việc chiêu mộ Cuadrado từ Fiorentina với hợp đồng kéo dài bốn năm rưỡi. Phí chuyển nhượng khởi điểm là 23,3 triệu bảng Anh, có thể tăng lên 26,8 triệu bảng. Mohamed Salah, tiền vệ của Chelsea, chuyển đến Fiorentina theo dạng cho mượn như một phần của thỏa thuận. Ngay khi ký hợp đồng, Cuadrado chia sẻ: 'Tôi rất hào hứng và cảm ơn vì cơ hội này. Đây là một câu lạc bộ lớn, và việc gia nhập gia đình Chelsea thực sự giống như một giấc mơ. Tôi rất vui khi biết huấn luyện viên José Mourinho tin tưởng vào tôi.' Anh được cấp số áo 23, số áo trước đó của thủ môn Mark Schwarzer.
Năm ngày sau khi gia nhập Chelsea, Cuadrado có trận đấu đầu tiên khi thay thế Willian trong 10 phút cuối trận thắng 2-1 trước Aston Villa. Vào ngày 11 tháng 2, anh có trận đấu chính thức đầu tiên tại Stamford Bridge và ra sân lần đầu tiên cho Chelsea trong chiến thắng 1-0 trước Everton. Danh hiệu đầu tiên của Cuadrado với Chelsea là Cúp Liên đoàn sau chiến thắng 2-0 trước Tottenham Hotspur trong trận chung kết, nơi anh vào sân từ phút 76. Phong độ của anh trong những trận đầu tại Premier League không mấy ấn tượng, với việc bỏ lỡ cơ hội đáng tiếc trong trận đấu với Stoke City. Huấn luyện viên Mourinho nhận xét rằng Cuadrado cần thêm thời gian để hòa nhập.
Ngày 3 tháng 5, Cuadrado ra sân từ đầu trong chiến thắng 1-0 trước Crystal Palace, giúp Chelsea giành chức vô địch Premier League lần thứ tư. Ba tuần sau, trong trận đấu cuối cùng của mùa giải với Sunderland, anh đóng góp một quả phạt đền giúp Chelsea cân bằng tỷ số 1-1 và giành chiến thắng chung cuộc 3-1.
Ngày 16 tháng 8, Cuadrado có trận đấu đầu tiên của mùa giải 2015-16 khi vào sân từ ghế dự bị trong trận thua 0-3 trước Manchester City.
Juventus
Vào ngày 25 tháng 8 năm 2015, Cuadrado gia nhập Juventus theo hợp đồng cho mượn từ Chelsea cho đến hết mùa giải 2015-16. Chỉ sau năm ngày, anh đã có trận đấu đầu tiên cho 'Bà đầm già' khi vào sân ở phút 75 trong trận thua 2-1 trước AS Roma. Vào ngày 31 tháng 10, anh ghi bàn thắng đầu tiên cho Juventus ở phút 90+3 trong chiến thắng 2-1 trước Torino.
Ngày 16 tháng 3 năm 2016, Cuadrado có bàn thắng đầu tiên tại UEFA Champions League, nâng tỷ số lên 2-0 trong trận thua 4-2 trước Bayern München tại lượt về vòng 1/16. Vào ngày 21 tháng 5, anh vào sân từ băng ghế dự bị và kiến tạo cho Álvaro Morata ghi bàn thắng duy nhất trong trận chung kết Coppa Italia 2016, giúp Juventus có được cú đúp danh hiệu quốc nội thứ hai liên tiếp. Tổng cộng, Cuadrado đã có 4 bàn thắng và 6 pha kiến tạo trong khoảng thời gian mượn tại Juventus.
Cuadrado trở lại Chelsea vào mùa hè 2016 và tham gia một số trận giao hữu trước mùa giải. Tuy nhiên, đến ngày 31 tháng 8, anh trở lại Juventus theo hợp đồng cho mượn ba năm với mức phí 5 triệu euro mỗi mùa, cộng với tùy chọn mua đứt sau đó. Ngày 5 tháng 2 năm 2017, Cuadrado ghi bàn thắng đầu tiên ở Serie A sau 9 tháng và bàn thắng này cũng mang về chiến thắng 1-0 cho Juventus trước Inter Milan.
2017-18
Ngày 26 tháng 8 năm 2017, Cuadrado ghi bàn thắng đầu tiên trong mùa giải 2017-18 với pha lập công trong chiến thắng 4-2 trước Genoa. Ngày 5 tháng 11, anh đánh đầu ghi bàn giúp Juventus lội ngược dòng thành công trước Benevento Calcio. Vào ngày 5 tháng 12 năm 2017, anh có bàn thắng đầu tiên tại Champions League kể từ tháng 10 năm 2016, mở tỷ số trong trận thắng 2-0 trước Olympiacos.
Ngày 31 tháng 3 năm 2018, Cuadrado ghi bàn nâng tỷ số lên 2-1 trong chiến thắng 3-1 của Juventus trước AC Milan ở Serie A. Anh khép lại mùa giải 2017-18 với hai danh hiệu quốc nội Serie A và Coppa Italia, trong đó anh thi đấu trọn 90 phút trong trận chung kết Coppa Italia thắng AC Milan 4-0.
2019-nay
Vào ngày 21 tháng 9 năm 2019, Cuadrado có trận đấu thứ 100 tại Serie A cùng Juventus trong chiến thắng 2-1 trên sân nhà trước Verona. Ngày 3 tháng 11, anh có lần ra sân thứ 150 cho câu lạc bộ trong chiến thắng 1-0 trên sân khách trước Torino trong trận Derby della Mole. Cuối tháng đó, anh ký gia hạn hợp đồng với Juventus đến năm 2022.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia
Cuadrado lần đầu tiên được gọi vào đội tuyển Colombia vào tháng 9 năm 2010 và có màn ra mắt trong trận giao hữu với Venezuela, ghi bàn ngay trong trận đấu này, góp phần giúp Colombia thắng 2-0.
World Cup 2014
Mùa hè năm 2014, dưới sự dẫn dắt của huấn luyện viên José Pekerman, Cuadrado được chọn vào đội hình 23 cầu thủ Colombia dự World Cup 2014 tại Brazil. Ngay trong trận ra quân, Cuadrado trở thành cầu thủ Colombia đầu tiên có hai pha kiến tạo trong một trận đấu World Cup, giúp đội bóng Nam Mỹ thắng Hy Lạp 3-0. Trong trận đấu tiếp theo với Bờ Biển Ngà, từ quả phạt góc của Cuadrado, James Rodríguez đã đánh đầu ghi bàn.
Trong trận đấu cuối cùng của vòng bảng gặp Nhật Bản, Cuadrado ghi bàn thắng của riêng mình từ chấm phạt đền. Vào ngày 28 tháng 6, anh có thêm một pha kiến tạo trong chiến thắng 2-0 trước Uruguay tại sân vận động Maracanã, đưa Colombia lần đầu tiên vào tứ kết World Cup và cá nhân anh trở thành cầu thủ đầu tiên có bốn pha kiến tạo kể từ World Cup 2006. Kết thúc giải đấu, Cuadrado đứng đầu danh sách kiến tạo cùng với Toni Kroos của Đức.
Cuadrado đã chơi trọn vẹn cả bốn trận của Colombia tại Cúp bóng đá Nam Mỹ 2015 và thực hiện thành công lượt sút luân lưu trong trận tứ kết thua Argentina.
Vào ngày 13 tháng 10 năm 2015, Cuadrado bị truất quyền thi đấu trong trận thua 3-0 trước Uruguay ở vòng loại World Cup 2018 sau khi có pha huých cùi chỏ với Diego Rolán.
World Cup 2018
Vào tháng 6 năm 2018, Cuadrado có lần thứ hai tham gia World Cup khi được triệu tập vào đội hình đội tuyển Colombia tại giải đấu diễn ra ở Nga. Tại World Cup 2018, anh thi đấu đầy đủ cả bốn trận của Colombia, ghi một bàn trong chiến thắng 3-0 trước Ba Lan ở vòng bảng và thực hiện một đường chuyền kiến tạo trong trận đấu vòng 16 đội với Anh.
Phong cách thi đấu
Cuadrado có thể chơi ở nhiều vị trí khác nhau như tiền đạo, hậu vệ cánh phải và tiền vệ cánh, nhưng vị trí yêu thích của anh từ khi thi đấu cho Fiorentina là tiền vệ cánh phải. Anh nổi bật với tốc độ đi bóng và khả năng rê dắt bóng, được Luca Toni đặt biệt danh 'Vespa' vì lối chơi lắt léo của anh giống như chiếc xe máy luồn lách qua xe hơi trên đường phố Ý. Anh cũng là người dẫn đầu về số lần rê bóng thành công tại Ý mùa giải 2012-13. Cuadrado còn có khả năng hỗ trợ phòng ngự tốt và nền tảng thể lực vững vàng. Kỹ năng dứt điểm, từng là điểm yếu của anh, đã được cải thiện qua từng mùa giải và mỗi câu lạc bộ anh chơi cho.
Danh hiệu đạt được
Câu lạc bộ đã thi đấu
Chelsea
- Giải Ngoại hạng Anh: 2014–15
- Cúp Liên đoàn bóng đá: 2014–15
Juventus
- Serie A: 2015–16, 2016–17, 2017–18, 2018–19, 2019–20
- Coppa Italia: 2015–16, 2016–17, 2017–18, 2020–21
- Siêu cúp Ý: 2018, 2020
Inter Milan
- Serie A: 2023–24
- Siêu cúp Ý: 2023
Đội tuyển quốc gia
- Hạng ba Copa América: 2016, 2021
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
- Cập nhật đến ngày 23 tháng 5 năm 2021
CLB | Giải vô địch QG | Cúp QG | Cúp liên đoàn | Cúp châu lục | Khác | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
CLB | Mùa bóng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng | Số trận | Bàn thắng |
Colombia | League | Copa Colombia | League Cup | Nam Mỹ | Khác | Tổng cộng | |||||||
Independiente Medellín | 2008 | 21 | 2 | 0 | 0 | — | — | — | 21 | 2 | |||
2009 | 9 | 0 | 0 | 0 | — | 2 | 0 | — | 11 | 0 | |||
Tổng cộng | 30 | 2 | 0 | 0 | — | 2 | 0 | — | 32 | 2 | |||
Ý | League | Coppa Italia | League Cup | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | |||||||
Udinese | 2009–10 | 11 | 0 | 1 | 0 | — | — | — | 12 | 0 | |||
2010–11 | 9 | 0 | 3 | 0 | — | — | — | 12 | 0 | ||||
Tổng cộng | 20 | 0 | 4 | 0 | — | — | — | 24 | 0 | ||||
Lecce (mượn) | 2011–12 | 33 | 3 | 0 | 0 | — | — | — | 33 | 3 | |||
Fiorentina | 2012–13 | 36 | 5 | 4 | 0 | — | — | — | 40 | 5 | |||
2013–14 | 32 | 11 | 3 | 1 | — | 8 | 3 | — | 43 | 15 | |||
2014–15 | 17 | 4 | 1 | 1 | — | 5 | 1 | — | 23 | 6 | |||
Tổng cộng | 85 | 20 | 8 | 2 | — | 13 | 4 | — | 106 | 26 | |||
Juventus | 2015–16 | 28 | 4 | 4 | 0 | — | 8 | 1 | — | 40 | 5 | ||
2016–17 | 30 | 2 | 3 | 0 | — | 12 | 1 | 0 | 0 | 45 | 3 | ||
2017–18 | 21 | 4 | 1 | 0 | — | 6 | 1 | 1 | 0 | 29 | 5 | ||
2018–19 | 18 | 1 | 0 | 0 | — | 5 | 0 | 0 | 0 | 23 | 1 | ||
2019–20 | 33 | 2 | 5 | 0 | — | 6 | 1 | 1 | 0 | 45 | 3 | ||
2020–21 | 30 | 2 | 3 | 0 | — | 6 | 0 | 1 | 0 | 40 | 2 | ||
Tổng cộng | 160 | 15 | 16 | 0 | 0 | 0 | 43 | 4 | 3 | 0 | 222 | 19 | |
Anh | League | FA Cup | League Cup | Châu Âu | Khác | Tổng cộng | |||||||
Chelsea | 2014–15 | 12 | 0 | — | 1 | 0 | 1 | 0 | — | 14 | 0 | ||
2015–16 | 1 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | 1 | 0 | ||
2016–17 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | ||
Tổng cộng | 13 | 0 | 0 | 0 | 1 | 0 | 1 | 0 | — | 15 | 0 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 341 | 40 | 28 | 2 | 1 | 0 | 59 | 8 | 3 | 0 | 432 | 50 |
Đội tuyển quốc gia
- Cập nhật đến ngày 27 tháng 9 năm 2022
Colombia | ||
---|---|---|
Năm | Số trận | Bàn thắng |
2010 | 4 | 1 |
2011 | 4 | 0 |
2012 | 7 | 2 |
2013 | 11 | 0 |
2014 | 12 | 2 |
2015 | 9 | 0 |
2016 | 13 | 1 |
2017 | 9 | 1 |
2018 | 9 | 1 |
2019 | 12 | 0 |
2020 | 4 | 0 |
2021 | 13 | 2 |
2022 | 5 | 0 |
Tổng cộng | 113 | 10 |
Ghi bàn cho đội tuyển quốc gia
- Các bàn thắng và kết quả của đội tuyển Colombia được liệt kê trước tiên
Bàn thắng đội tuyển quốc gia | ||||||
---|---|---|---|---|---|---|
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
1. | 3 tháng 9 năm 2010 | Sân vận động José Antonio Anzoátegui, Puerto la Cruz, Venezuela | Venezuela | 1–0 | 2–0 | Giao hữu |
2. | 29 tháng 2 năm 2012 | Sân vận động Sun Life, Miami Gardens, Hoa Kỳ | México | 2–0 | ||
3. | 14 tháng 11 năm 2012 | Sân vận động MetLife, East Rutherford, Hoa Kỳ | Brasil | 1–0 | 1–1 | |
4. | 6 tháng 6 năm 2014 | Sân vận động Pedro Bidegain, Buenos Aires, Argentina | Jordan | 2–0 | 3–0 | |
5. | 24 tháng 6 năm 2014 | Arena Pantanal, Cuiabá, Brasil | Nhật Bản | 1–0 | 4–1 | World Cup 2014 |
6. | 29 tháng 5 năm 2016 | Marlins Park, Miami, Hoa Kỳ | Haiti | 2–1 | 3–1 | Giao hữu |
7. | 28 tháng 3 năm 2017 | Sân vận động Olympic Atahualpa, Quito, Ecuador | Ecuador | 2–0 | 2–0 | Vòng loại World Cup 2018 |
8 | 24 tháng 6 năm 2018 | Kazan Arena, Kazan, Nga | Ba Lan | 3–0 | World Cup 2018 | |
9 | 9 tháng 7 năm 2021 | Sân vận động Mané Garrincha, Brasília, Brasil | Peru | 1–1 | 3–2 | Copa América 2021 |
10. | 5 tháng 9 năm 2021 | Sân vận động Defensores del Chaco, Asunción, Paraguay | Paraguay | 1–1 | Vòng loại World Cup 2022 |
Chú giải
Liên kết tham khảo
- Juan Cuadrado trên National-Football-Teams.com
- Thông tin về Juan Cuadrado trên ESPNFC
- Thông tin về Juan Cuadrado trên Transfermarkt
Juventus F.C. – đội hình hiện tại |
---|