
Draxler với Paris Saint-Germain năm 2019 | |||
Thông tin cá nhân | |||
---|---|---|---|
Tên đầy đủ | Julian Draxler | ||
Ngày sinh | 20 tháng 9, 1993 (30 tuổi) | ||
Nơi sinh | Gladbeck, Đức | ||
Chiều cao | 1,87 m (6 ft 2 in) | ||
Vị trí |
Tiền vệ cánh Tiền vệ công | ||
Thông tin đội | |||
Đội hiện nay | Al Ahli SC | ||
Số áo | 7 | ||
Sự nghiệp cầu thủ trẻ | |||
Năm | Đội | ||
1998–2000 | BV Rentfort | ||
2000–2001 | SSV Buer 07/28 | ||
2001–2011 | Schalke 04 | ||
Sự nghiệp cầu thủ chuyên nghiệp* | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2011–2015 | Schalke 04 | 119 | (18) |
2015–2017 | VfL Wolfsburg | 34 | (5) |
2017–2023 | Paris Saint-Germain | 131 | (17) |
2022–2023 | → Benfica (mượn) | 10 | (1) |
2023– | Al Ahli SC | ||
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia | |||
Năm | Đội | ST | (BT) |
2010–2011 | U-18 Đức | 8 | (1) |
2011 | U-19 Đức | 2 | (1) |
2011 | U-21 Đức | 1 | (1) |
2012–2022 | Đức | 58 | (7) |
Thành tích huy chương | |||
*Số trận ra sân và số bàn thắng ở câu lạc bộ tại giải quốc gia, chính xác tính đến 2 tháng 9 năm 2022 ‡ Số trận ra sân và số bàn thắng ở đội tuyển quốc gia, chính xác tính đến 29 tháng 5 năm 2022 |
Julian Draxler (sinh ngày 20 tháng 9 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Đức hiện đang thi đấu ở vị trí tiền vệ cánh cho câu lạc bộ Al Ahli tại giải Qatar Stars League. Anh nổi bật với khả năng sử dụng cả hai chân, kỹ năng dứt điểm xuất sắc và tốc độ ấn tượng.
Draxler ra mắt Bundesliga khi mới 16 tuổi, trở thành cầu thủ trẻ nhất từng thi đấu tại Schalke và sau đó là cầu thủ trẻ nhất ghi bàn trong trận chung kết Cúp Quốc gia Đức. Vào tháng 8 năm 2015, anh chuyển đến VfL Wolfsburg và sau đó gia nhập PSG từ tháng 1 năm 2017.
Vào tháng 5 năm 2012, Draxler có trận đấu đầu tiên cho đội tuyển Đức và góp mặt trong đội hình 23 cầu thủ Đức đoạt chức vô địch World Cup 2014 tại Brazil.
Sự nghiệp câu lạc bộ
Schalke 04
Draxler có trận ra mắt Bundesliga vào ngày 15 tháng 1 năm 2011 trong trận thua 1-0 trước Hamburg, trở thành cầu thủ trẻ nhất trong lịch sử Schalke thi đấu tại Bundesliga và đứng thứ tư trong danh sách các cầu thủ trẻ nhất có trận đầu tiên tại giải đấu hàng đầu nước Đức. Chỉ 4 ngày sau, anh được đá chính trong trận gặp Hannover 96 và có pha kiến tạo cho Raúl González ghi bàn duy nhất. Draxler cũng là cầu thủ trẻ thứ hai trong lịch sử Bundesliga có mặt trong đội hình xuất phát.
Vào ngày 25 tháng 1 năm 2011, Draxler vào sân từ băng ghế dự bị thay Peer Kluge trong trận tứ kết Cúp bóng đá Đức (DFB-Pokal) gặp Nürnberg và ghi bàn thắng quyết định 3-2 cho Schalke 04, đánh dấu bàn thắng chính thức đầu tiên của anh cho Schalke. Anh ghi bàn đầu tiên tại Bundesliga vào ngày 1 tháng 4 năm 2011 trong trận đấu với St. Pauli.
Draxler đã ghi một bàn thắng và thực hiện một pha kiến tạo trong trận thắng 5-0 trước MSV Duisburg tại chung kết Cúp bóng đá Đức 2011. Bàn thắng trong trận đấu này giúp anh trở thành cầu thủ trẻ nhất ghi bàn trong trận chung kết Cúp bóng đá Đức.
Trong mùa giải 2011-12, Draxler đã góp công lớn giúp Schalke xếp thứ ba tại Bundesliga, với cá nhân anh ra sân trong 30/34 trận đấu của Schalke. Vào ngày 25 tháng 9 năm 2012, anh có trận đấu thứ 50 tại Bundesliga trong chiến thắng 3-0 trước FSV Mainz 05 khi mới 19 tuổi 5 ngày, trở thành cầu thủ trẻ nhất đạt được cột mốc này trong lịch sử Bundesliga.
Trong mùa giải 2012-13, Draxler duy trì phong độ ấn tượng với các bàn thắng vào lưới Greuther Fürth, Werder Bremen, Borussia Mönchengladbach và Hannover 96. Vào ngày 3 tháng 3 năm 2013, anh lập cú đúp và kiến tạo trong chiến thắng 4-1 trước Wolfsburg. Một tuần sau, Draxler trở thành cầu thủ trẻ nhất của Schalke đạt 100 trận đấu chính thức và kỷ niệm bằng bàn thắng giúp Schalke thắng 2-1 trước Borussia Dortmund. Vào ngày 3 tháng 5, anh ghi bàn duy nhất trong trận đấu với Borussia Mönchengladbach. Kết thúc mùa giải, anh và Klaas-Jan Huntelaar cùng dẫn đầu danh sách ghi bàn của Schalke với 10 bàn và thêm ba pha kiến tạo.
Vào tháng 5 năm 2013, Draxler ký gia hạn hợp đồng với Schalke đến ngày 30 tháng 6 năm 2018. Vào ngày 2 tháng 10 năm 2013, anh ghi bàn thắng duy nhất trong trận gặp Basel ở vòng bảng UEFA Champions League 2013-14. Trong trận lượt về với Basel, Draxler mở tỉ số giúp Schalke thắng 2-0 và lọt vào vòng loại trực tiếp. Tuy nhiên, mùa giải 2013-14 không mấy thành công với Draxler khi anh chỉ ghi 6 bàn sau 38 trận cho Schalke, trong đó có 2 bàn sau 26 trận tại Bundesliga.
Draxler đã có tổng cộng 119 lần ra sân tại Bundesliga và ghi 18 bàn cho Schalke trước khi chuyển đến VfL Wolfsburg vào tháng 8 năm 2015.
VfL Wolfsburg
Vào ngày 31 tháng 8 năm 2015, Draxler chính thức gia nhập VfL Wolfsburg với hợp đồng 5 năm và mức phí chuyển nhượng kỷ lục từ 25,5 đến 30 triệu £. Ngày 12 tháng 9, anh có trận đấu ra mắt cho Wolfsburg trong trận hòa 0-0 trước FC Ingolstadt 04. Ba ngày sau, anh ghi bàn đầu tiên cho 'Bầy sói' trong chiến thắng 1-0 trước PFC CSKA Moscow ở lượt trận đầu tiên vòng bảng UEFA Champions League 2015-16.
Vào cuối tháng 10, Draxler đã ghi bàn ấn định chiến thắng 2-1 trước Bayer 04 Leverkusen trong trận đấu vòng 11 Bundesliga. Vào ngày 17 tháng 2 năm 2016, hai pha lập công xuất sắc của Draxler đã giúp Wolfsburg giành chiến thắng 3-2 trên sân nhà của Genk tại lượt đi vòng 1/16 Champions League. Trong trận lượt về, anh kiến tạo cho André Schürrle ghi bàn thắng duy nhất, giúp Wolfsburg lần đầu tiên tiến vào tứ kết Champions League.
Trong mùa giải đầu tiên tại Wolfsburg, Draxler ghi 8 bàn và thực hiện 7 pha kiến tạo trên mọi đấu trường, bao gồm 5 bàn và 5 kiến tạo tại Bundesliga. Tuy nhiên, trong nửa đầu mùa giải 2016-17, anh không ghi bàn và chỉ có 2 pha kiến tạo. Tổng cộng, anh có 5 bàn sau 34 trận tại Bundesliga trong thời gian khoác áo Wolfsburg.
Paris Saint-Germain
Ngày 24 tháng 12 năm 2016, VfL Wolfsburg công bố việc Draxler gia nhập Paris Saint-Germain với bản hợp đồng 4 năm. Thương vụ hoàn tất vào ngày 3 tháng 1 năm 2017, với phí chuyển nhượng 44 triệu đôla và có thể lên tới 49 triệu đôla tùy theo hiệu suất của anh tại PSG.
Ngày 7 tháng 1 năm 2017, Draxler có trận ra mắt PSG tại Coupe de France gặp SC Bastia tại Sân vận động Công viên các Hoàng tử, ghi bàn ấn định chiến thắng 7-0 ở phút thứ 89. Một tuần sau, anh ra mắt Ligue 1 và ghi bàn duy nhất trong chiến thắng 1-0 trước Stade Rennais. Ngày 1 tháng 2, anh lập cú đúp trong trận đấu với Rennais, tổng cộng có 4 bàn sau 5 trận đầu tiên tại Pháp.
Vào ngày 14 tháng 2, Draxler ghi bàn thắng đầu tiên tại Champions League cho PSG trong chiến thắng 4-0 trước Barcelona ở lượt đi vòng 1/16 UEFA Champions League 2016-17. Sau 12 ngày, anh vào sân từ băng ghế dự bị và ghi bàn trong chiến thắng 5-1 trước Olympique de Marseille tại Sân vận động Vélodrome. Vào ngày 19 tháng 3, anh lại ghi bàn giúp PSG lội ngược dòng thắng Olympique Lyonnais 2-1.
Vào ngày 1 tháng 4, Draxler mở tỉ số trong trận chung kết Coupe de la Ligue 2017, nơi PSG thắng 4-1 trước AS Monaco, đánh dấu danh hiệu đầu tiên của anh tại Pháp.
Sự nghiệp đội tuyển quốc gia

Ngày 9 tháng 8 năm 2011, Draxler ghi bàn trong trận đấu đầu tiên cho đội tuyển U-21 Đức, giúp đội chiến thắng 4-1 trước U-21 Cộng hòa Síp tại vòng loại Giải vô địch bóng đá U-21 châu Âu 2013.
Ngày 7 tháng 5 năm 2012, dù chưa có trận đấu nào cho đội tuyển Đức, Draxler vẫn được triệu tập vào danh sách sơ bộ tham dự Euro 2012 nhưng cuối cùng bị loại khỏi đội hình chính thức. Vào ngày 26 tháng 5 năm 2012, anh có trận ra mắt đội tuyển Đức trong trận thua 5-3 trước Thụy Sĩ. Bàn thắng quốc tế đầu tiên của anh đến từ trận giao hữu thắng đội tuyển Mỹ 4-3.
Vào tháng 6 năm 2014, Draxler được chọn vào đội hình 23 cầu thủ Đức tham dự World Cup 2014 tại Brazil. Anh có cơ hội thi đấu trong trận bán kết thắng chủ nhà Brazil 7-1 và vào phút 76 thay cho Sami Khedira. Đội tuyển Đức cuối cùng giành chức vô địch sau khi đánh bại Argentina ở trận chung kết.
Euro 2016
Draxler được triệu tập vào đội tuyển Đức tham dự Euro 2016 tại Pháp. Trong vòng bảng, anh ra sân trong hai trận đấu với Ukraine và Ba Lan. Ở trận vòng 1/16 gặp Slovakia, anh ghi một bàn và kiến tạo một bàn khác, giúp Đức thắng 3-1 và được UEFA chọn là cầu thủ xuất sắc nhất trận.
Confederations Cup 2017
Trong trận mở màn Cúp Liên đoàn các châu lục 2017 gặp Úc, Draxler đeo băng đội trưởng và ghi một bàn trong chiến thắng 3-2, đồng thời được vinh danh là ‘Cầu thủ xuất sắc nhất’ của trận đấu. Trong trận cuối vòng bảng với Cameroon, anh thực hiện cú gót tinh tế để Kerem Demirbay ghi bàn mở tỷ số. Đức thắng 3-1 và đứng đầu bảng. Đội tuyển Đức sau đó vô địch giải đấu với chiến thắng 1-0 trước Chile, và Draxler được chọn là Cầu thủ xuất sắc nhất giải.
World Cup 2018
Draxler tiếp tục được gọi vào danh sách 23 cầu thủ của đội tuyển Đức tham dự World Cup 2018 tại Nga. Tuy nhiên, đội tuyển Đức đã bị loại sau khi thua Hàn Quốc 0-2 trong lượt trận cuối vòng bảng, không thể bảo vệ danh hiệu vô địch.
Phong cách thi đấu
Draxler là cầu thủ thuận cả hai chân, nổi bật với tốc độ và sức mạnh trong các pha đối mặt. Anh chủ yếu chơi ở vị trí tiền vệ cánh trái nhưng cũng có thể thi đấu ở cánh phải và tiền vệ tấn công. Ở đội trẻ Schalke, vị trí ưa thích của anh là tiền vệ tấn công. Tại Cúp Liên đoàn các châu lục 2017, anh được thi đấu ở vị trí tự do trên hàng tiền vệ.
Draxler là cầu thủ nổi bật với những cú sút mạnh mẽ và đầy ấn tượng. Anh cũng được khen ngợi về khả năng đọc trận đấu, chuyền bóng chính xác và di chuyển thông minh trên sân.
Thống kê sự nghiệp
Câu lạc bộ
- Cập nhật đến ngày 2 tháng 10 năm 2020
Câu lạc bộ | Mùa giải | Giải đấu | Cúp quốc gia | Cúp liên đoàn | Châu lục | Khác | Tổng cộng | |||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Giải đấu | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | Trận | Bàn | ||
Schalke 04 | 2010–11 | Bundesliga | 15 | 1 | 3 | 2 | — | 6 | 0 | — | 24 | 3 | ||
2011–12 | 30 | 2 | 2 | 1 | 13 | 2 | 1 | 0 | 46 | 5 | ||||
2012–13 | 30 | 10 | 3 | 2 | 6 | 1 | — | 39 | 13 | |||||
2013–14 | 26 | 2 | 2 | 0 | 10 | 4 | 38 | 6 | ||||||
2014–15 | 15 | 2 | 1 | 0 | 3 | 0 | 19 | 2 | ||||||
2015–16 | 3 | 1 | 1 | 0 | 0 | 0 | 4 | 1 | ||||||
Tổng cộng | 119 | 18 | 12 | 5 | — | 38 | 7 | 1 | 0 | 170 | 30 | |||
VfL Wolfsburg | 2015–16 | Bundesliga | 21 | 5 | 1 | 0 | — | 9 | 3 | 0 | 0 | 31 | 8 | |
2016–17 | 13 | 0 | 1 | 0 | — | 14 | 0 | |||||||
Tổng cộng | 34 | 5 | 2 | 0 | — | 9 | 3 | 0 | 0 | 45 | 8 | |||
Paris Saint-Germain | 2016–17 | Ligue 1 | 17 | 4 | 5 | 4 | 1 | 1 | 2 | 1 | — | 25 | 10 | |
2017–18 | 30 | 4 | 6 | 0 | 3 | 1 | 8 | 0 | 0 | 0 | 47 | 5 | ||
2018–19 | 22 | 3 | 5 | 2 | 2 | 0 | 7 | 0 | 0 | 0 | 36 | 5 | ||
2019–20 | 11 | 0 | 4 | 0 | 2 | 0 | 5 | 0 | 0 | 0 | 22 | 0 | ||
2020–21 | 5 | 2 | 0 | 0 | — | 0 | 0 | 0 | 0 | 5 | 2 | |||
Tổng cộng | 94 | 13 | 21 | 6 | 8 | 2 | 22 | 1 | 0 | 0 | 145 | 22 | ||
Tổng cộng sự nghiệp | 247 | 36 | 35 | 11 | 8 | 2 | 69 | 11 | 1 | 0 | 360 | 60 |
- 1.^ Bao gồm DFB-Pokal.
- 2.^ Bao gồm UEFA Champions League và UEFA Europa League.
- 3.^ Bao gồm Siêu cúp Đức.
Đội tuyển quốc gia
Đội tuyển quốc gia | Năm | App. | Bàn |
---|---|---|---|
Đức | |||
2012 | 3 | 0 | |
2013 | 7 | 1 | |
2014 | 5 | 0 | |
2015 | 1 | 0 | |
2016 | 11 | 2 | |
2017 | 13 | 3 | |
2018 | 9 | 0 | |
2019 | 2 | 0 | |
2020 | 5 | 1 | |
Tổng cộng | 56 | 7 | |
Tính đến ngày 13 tháng 10 năm 2020 |
Thành tích ghi bàn của đội tuyển quốc gia
- Thông tin về bàn thắng và tỉ số của đội tuyển Đức được hiển thị ở phía trước.
# | Ngày | Địa điểm | Đối thủ | Bàn thắng | Kết quả | Giải đấu |
---|---|---|---|---|---|---|
1. | 2 tháng 6 năm 2013 | Sân vận động Tưởng niệm RFK, Washington, D.C., Hoa Kỳ | Hoa Kỳ | 3–4 | 3–4 | Giao hữu |
2. | 26 tháng 6 năm 2016 | Sân vận động Pierre-Mauroy, Lille, Pháp | Slovakia | 3–0 | 3–0 | Euro 2016 |
3. | 11 tháng 10 năm 2016 | Niedersachsenstadion, Hanover, Đức | Bắc Ireland | 1–0 | 2–0 | Vòng loại World Cup 2018 |
4. | 10 tháng 6 năm 2017 | Nürnbergstadion, Nuremberg, Đức | San Marino | 1–0 | 7–0 | Vòng loại World Cup 2018 |
5. | 19 tháng 6 năm 2017 | Sân vận động Olympic Fisht, Sochi, Nga | Úc | 2–1 | 3–2 | Confed Cup 2017 |
5. | 4 tháng 9 năm 2017 | Mercedes-Benz Arena, Stuttgart, Đức | Na Uy | 2–0 | 6–0 | Vòng loại World Cup 2018 |
6. | 7 tháng 10 năm 2020 | Sân vận động RheinEnergie, Cologne, Đức | Thổ Nhĩ Kỳ | 1–0 | 3–3 | Giao hữu |
Danh hiệu đạt được
Câu lạc bộ tham gia
- Schalke 04
- DFB-Pokal (1): 2010–11
- Siêu cúp Đức (1): 2011
- Paris Saint-Germain
- Coupe de France: 2016–17
- Coupe de la Ligue: 2016–17
Đội tuyển quốc gia
- World Cup FIFA (1): 2014
- Cúp Liên đoàn các châu lục (1): 2017
Danh hiệu cá nhân
- Huy chương Fritz Walter: Huy chương Vàng U-18 năm 2011
- Giải thưởng Bàn thắng của năm do khán giả Sportschau bình chọn: 2013 (cùng Raúl González)
- Cầu thủ xuất sắc nhất Cúp Liên đoàn các châu lục 2017
- Cầu thủ xuất sắc nhất trận đấu Đức - Slovakia tại Euro 2016 vào ngày 26 tháng 6 năm 2016.
Cuộc sống cá nhân
Trước khi chuyển đến học tại trường Gesamtschule Berger Feld vào năm 2011, anh theo học tại trường Heisenberg-Gymnasium ở Gladbeck. Từ khi còn nhỏ, anh đã là fan của Schalke 04 sau khi cùng cha đi xem các trận đấu của đội bóng này.
Ghi chú
Liên kết bên ngoài
- Trang web chính thức
- Julian Draxler trên fussballdaten.de (tiếng Đức)
- Julian Draxler – Hồ sơ thành tích thi đấu FIFA
- Julian Draxler – Hồ sơ thành tích thi đấu tại UEFA