Kakapo | |
---|---|
Chú vẹt kakapo Sirocco nổi tiếng trên đảo Maud | |
Tình trạng bảo tồn
| |
Cực kỳ nguy cấp (IUCN 3.1) | |
Cực kỳ nguy cấp khắp nước (NZ TCS) | |
Phân loại khoa học | |
Vực: | Eukaryota |
Giới:
|
Animalia |
Ngành: | Chordata |
Lớp: | Aves |
Bộ: | Psittaciformes |
Họ: | Strigopidae |
Chi: | Strigops G.R. Gray, 1845 |
Loài: | S. habroptilus
|
Danh pháp hai phần | |
Strigops habroptilus G.R. Gray, 1845 | |
Các đồng nghĩa | |
Strigops habroptila |
Kakapo hay còn gọi là vẹt cú (Māori: kākāpō, có nghĩa là vẹt đêm), tên khoa học: Strigops habroptilus, là một loài chim thuộc họ Strigopidae. Đây là loài vẹt không bay, đặc hữu của New Zealand.
Phân loại và tên gọi
Kakapo lần đầu được nhà điểu học người Anh George Robert Gray mô tả vào năm 1845. Tên khoa học của nó có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại, tên chi (Strigops) bao gồm strix nghĩa là 'cú', và ops nghĩa là 'mặt', tên loài (habroptilus) bao gồm habros nghĩa là 'mềm', và ptilon nghĩa là 'lông vũ'. Nghiên cứu hiện tại đã xác nhận sự độc nhất của Kakapo trong chi Strigops cũng như với các họ hàng gần nhất là vẹt caca New Zealand và vẹt Kea (cả hai thuộc chi Nestor). Chúng được xem là thuộc liên họ Strigopoidea (= Nestoroidea) và Kakapo cũng được đề xuất thuộc họ Strigopidae.
Một số nhà nghiên cứu cho rằng tổ tiên chung của Kakapo và Nestor đã tách biệt khỏi các loài vẹt khác khi New Zealand rời khỏi siêu lục địa Gondwana khoảng 80-85 triệu năm trước, và Kakapo tách khỏi chi Nestor khoảng 70 triệu năm trước. Tuy nhiên, theo Wright et al. (2008), thời gian tách của tổ tiên chung của Kakapo và Nestor khỏi các loài vẹt khác là khoảng 50 triệu năm trước, và kết quả này khá phù hợp với nghiên cứu của Jarvis et al. (2014), cho rằng Psittaciformes tách khỏi Passeriformes khoảng 55 triệu năm trước.
Bảo vệ
Kakapo là loài cực kỳ nguy cấp, tính đến tháng 6 năm 2016, chỉ còn khoảng 154 cá thể tồn tại, hầu hết đã được đặt tên. Việc thiếu động vật ăn thịt đã khiến loài này mất khả năng bay. Sự xuất hiện của động vật ăn thịt như mèo, chuột, chồn sương và chồn ecmin do người Polynesia và người châu Âu du nhập đã gần như dẫn đến sự tuyệt chủng của Kakapo. Những nỗ lực bảo tồn bắt đầu từ những năm 1890 nhưng không đạt nhiều kết quả. Trong những năm 1980, kế hoạch phục hồi Kakapo được triển khai. Tính đến tháng 4 năm 2012, những con Kakapo sống sót được bảo tồn trên ba đảo không có động vật ăn thịt: Codfish (Whenua Hou), Anchor và Little Barrier, và được giám sát chặt chẽ. Hai đảo lớn Fiordland, Resolution và Secretary, đang trong quá trình phục hồi sinh thái quy mô lớn để chuẩn bị cho việc tự duy trì hệ sinh thái phù hợp với môi trường sống của Kakapo.
Tham khảo
- Thông tin về Strigops habroptila có thể được tìm thấy tại Wikispecies